![](/media/cache/43/ce/43ce0165f30c9ef792c8f57ab9dc83b2.jpg)
- EVFTA: Cần quan tâm hơn đến các rào cản cần phải vượt qua
EVFTA có 17 chương, chương thuế chỉ là một chương, 16 chương còn lại nêu ra nhiều yêu cầu mà doanh nghiệp phải đáp ứng.
Đừng quá hồ hởi rồi phải hụt hẫng
Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) đề cập về các hiệp định FTA, trước khi ký kết hiệp định thì không khí rất hồ hởi, hồi hộp nhưng sau đó thì chỉ một số ít người tìm được cơ hội, còn phần lớn rơi vào tâm trạng hụt hẫng.
Đồng tình với ý kiến trên, chuyên gia kinh tế, đánh giá: Khi tham gia các FTA, nhiều doanh nghiệp nghĩ rằng mình sẽ thành công lớn nhưng sau đó bị hụt hẫng vì trái ngọt không như mình tưởng, do không đủ sức để đi theo con đường đòi hỏi nhiều cố gắng, bền bỉ lâu dài.
Cụ thể hơn, Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), thông tin: Hiệp định EVFTA đem tới cho doanh nghiệp Việt Nam chỉ 40% cơ hội, 60% còn lại là thách thức, nếu không chuẩn bị sẽ không hái được trái ngọt, trong khi áp lực là cụ thể. So với những nước trong khu vực EVFTA và CPTPP, ngành chăn nuôi của Việt Nam có trình độ kém hơn nhiều nước từ giống, chế biến, nguyên liệu thức ăn… tới quy mô chỉ là chăn nuôi nông hộ, làm sao để hội nhập. Xuất khẩu thủy sản chỉ vướng một chút thôi sẽ bị cảnh báo, hậu quả không chỉ ảnh hưởng tới doanh nghiệp mà còn đe dọa tới nguy cơ của cả quốc gia.
Phó tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho rằng: EVFTA có 17 chương, chương thuế chỉ là một chương, 16 chương còn lại nêu ra nhiều yêu cầu khác mà doanh nghiệp phải đáp ứng. Để xuất khẩu được một lô hàng vào thị trường EU, đó là một hành trình không hề đơn giản.
Việc đầu tiên là doanh nghiệp phải xin được một mã số xuất khẩu của châu Âu, nhà máy phải đạt tiêu chuẩn… tốn nhiều thời gian, công sức và tiền bạc của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thủy sản phải xem EVFTA là động lực mới để đưa hàng vào châu Âu nhưng không được quá vui mà ngủ quên. Xuất khẩu thủy sản chỉ vướng một chút thôi sẽ bị cảnh báo, hậu quả không chỉ ảnh hưởng tới doanh nghiệp mà còn đe dọa tới nguy cơ của cả quốc gia.
Trong khi đó, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, cho biết khi thực thi EVFTA, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ gặp muôn vàn vấn đề đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì và bền bỉ. Cơ quan Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ chứ không thể trả lời giúp cho doanh nghiệp làm thế nào để vượt qua.
Để cơ hội tăng lên, thách thức nhỏ lại
Theo Chuyên gia chỉ ra điều sai lầm trước đây: Thời gian qua, tham gia FTA, Việt Nam vẫn đang mải miết chạy theo chỉ tiêu xuất khẩu và thu hút FDI mà quên tăng nội lực cho mình. Trước khi vào WTO, doanh nghiệp FDI chỉ chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu nhưng sau đó đã vươn lên gần 70%, kéo theo đó là tình trạng nhập siêu cũng tăng lên. Nhập siêu chủ yếu là hàng tiêu dùng nội địa cạnh tranh với doanh nghiệp, nông dân, chứ không có nhiều máy móc, thiết bị để tái cơ cấu sản xuất.
Với EVFTA, kỳ vọng bài học từ 12 hiệp định FTA trước đây là kinh nghiệm để Việt Nam làm khác đi, tận dụng được thời cơ từ EVFTA đem lại. Giờ là lúc doanh nghiệp không được làm theo cách cũ, muốn sống sót và phát triển không có cách gì khác là phải thay đổi. Cà phê Việt Nam đã có mặt ở hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, EU là thị trường tiêu thụ nhiều cà phê của Việt Nam nhất, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về tổng kim ngạch xuất khẩu.
Thứ trưởng thường trực Bộ NN&PTNT nhận định: Các doanh nghiệp ngành gỗ Việt Nam cần nhìn nhận lại cách quản trị doanh nghiệp và phải thay đổi để thúc đẩy phát triển. Như Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ TP.HCM-HAWA đã phát triển thương mại điện tử và tiếp thị số với các gian hàng trực tuyến. Từ đó, khách hàng có thể tìm hiểu hàng hóa và các giao dịch thương mại đều diễn ra trên hệ thống mạng.
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2020 ước đạt khoảng 8,97 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ. Dự kiến cả năm 2020, xuất khẩu gỗ và lâm sản sẽ đạt con số kỷ lục 12,5 tỷ USD, tăng 18%.
EU là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 3 của Việt Nam, sau Mỹ và Nhật Bản, thị trường này luôn chiếm trên 17-18% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Với EVFTA, những thách thức mới cho ngành thủy sản Việt Nam là các điều kiện về hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, quy tắc xuất xứ. Đặc biệt, doanh nghiệp cũng cần chú trọng đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn về lao động và môi trường, các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững.
Từ nhiều năm nay, Việt Nam luôn là quốc gia xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới, đạt kim ngạch trên 3 tỷ USD/năm. Cà phê Việt Nam đã có mặt ở hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, EU là thị trường tiêu thụ nhiều cà phê của Việt Nam nhất, chiếm 40% trong tổng lượng và 38% về tổng kim ngạch xuất khẩu. Thứ trưởng Lê Quốc Doanh nhấn mạnh, EVFTA cho thấy những kết quả tích cực. Tháng 8/2020, giá trị xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam vào thị trường EU ước đạt gần 76 triệu USD, tăng 34,7% so với tháng 7/2020.
Thực thi EVFTA, sản phẩm cà phê phải đảm bảo không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, có truy xuất nguồn gốc, chất lượng cao, có chỉ dẫn địa lý, thực thi các quy trình được kiểm soát từ nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Bộ NN&PTNT đề nghị các địa phương áp dụng các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật trong trồng, chăm sóc, thu hoạch, sơ chế bảo quản các sản phẩm cà phê, xây dựng thương hiệu, đổi mới công nghệ-mẫu mã sản phẩm, đặc biệt là công nghệ chế biến sâu để đa dạng hóa sản phẩm.
Doanh nghiệp cần gì từ cơ quan quản lý?
Đối với doanh nghiệp, những hỗ trợ của Chính phủ một chút cũng rất quý giá, tiếp thêm một niềm tin, một sức khỏe bền bỉ cho doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu. Vào sân chơi này không có sức khoẻ sẽ không lấy được cơ hội vì cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia là rất lớn.
Đại diện VASEP kỳ vọng môi trường kinh doanh Việt Nam sẽ được cải thiện hơn nữa, tránh phát sinh các thủ tục phiền hà không đáng có như quy định mã số mã vạch hay nước thải… đang làm khó doanh nghiệp xuất khẩu. Về phía Bộ Công Thương, Ô.Lương Hoàng Thái cho biết sẽ trình Chính phủ để có một đầu mối duy nhất thông tin về EVFTA, giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận, giải đáp các khó khăn, vướng mắc.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết Việt Nam đang huy động toàn bộ hệ thống chính trị, nỗ lực ở mức cao nhất để tháo gỡ thẻ vàng đối với hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định của Việt Nam (IUU) để đảm bảo phát triển bền vững và giữ uy tín cho ngành thủy sản Việt Nam. Đồng thời cũng đặc biệt lưu ý đến việc cấm sử dụng chất chống oxy hóa để bảo quản thủy sản, đảm bảo sản phẩm đạt yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, an toàn.
Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam nắm bắt, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của cộng đồng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; cung cấp thông tin kịp thời cho các thành viên về cơ chế, chính sách ưu đãi, hàng rào về kỹ thuật, thông tin thị trường để các doanh nghiệp sớm nắm bắt và có điều chỉnh kịp thời.
Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội vừa ban hành Quyết định về Kế hoạch thực hiện EVFTA. Bộ này sẽ tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc triển khai cam kết lao động trong EVFTA. Hệ thống thanh tra lao động cũng được tăng cường năng lực để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật lao động, bao gồm việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi phân biệt đối xử và can thiệp, thao túng đối với tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
2. Đừng để ‘miếng bánh ngon’ rơi vào tay doanh nghiệp FDI
Đối diện với "mưa" cơ hội đang đến từ các FTA, các chuyên gia lo lắng: Doanh nghiệp FDI nắm bắt và khai thác hiệu quả hơn doanh nghiệp trong nước và hàng nội đứng trước nguy cơ mất thị phần ngay tại "sân nhà".
Tại diễn đàn “Nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt trước thời cơ, thách thức từ các Hiệp định thương mại thế hệ mới” do Bộ Công thương tổ chức ngày 29/10, Thứ trưởng Bộ Công thương cho biết, hiện Việt Nam có 13 FTA (hiệp định thương mại tự do) đã có hiệu lực và đang triển khai, trong đó có hai FTA thế hệ mới là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA).
“Có thể thấy, việc tham gia các FTA đã nâng tầm nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế, đầu tư nước ngoài tăng trưởng mạnh, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng cao…”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Tuy nhiên, một thực trạng đáng lo ngại các chuyên gia đưa ra tại diễn đàn đó là vấn đề khu vực doanh nghiệp nước ngoài (FDI) nắm bắt và khai thác tốt hơn, hiệu quả hơn các lợi ích FTA mang đến. Trong khi, đối tượng quan trọng là doanh nghiệp nội địa thì việc tận dụng cơ hội này còn đang rất hạn chế.
Minh chứng, khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chỉ đóng góp chưa đến 10% GDP trong khi khu vực FDI đóng góp khoảng 22-23% GDP. Chưa chết, trên bản đồ xuất khẩu, khu vực kinh tế bản địa chỉ đóng góp khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu thì khu vực FDI chiếm tỷ lệ 2/3, đóng góp 70%. Trong khi đó, ở chiều ngược lại là nhập khẩu thì tương quan nhập khẩu là 40%-60%.
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hạn chế nên gặp nhiều khó khăn khi tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Nguyên nhân chính là do doanh nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ và vừa, nguồn lực tài chính để đầu tư vào công nghệ, nâng cao trình độ quản lý và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hạn hẹp. Trong khi đó, sự hợp tác, liên kết chưa có, hoặc rất lỏng lẻo. Và quan trọng hơn và sự hạn chế trong nhận thức của một số doanh nghiệp, chưa có tư duy chiến lược để tận dụng được các thời cơ từ các FTA.
Đồng tình với chia sẻ trên, PGS. TS Trần Đình Thiên – Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ, Viện Kinh tế Việt Nam, cũng cho rằng vấn đề nằm ở chỗ có tới gần 96% doanh nghiệp Việt là nhỏ và siêu nhỏ, thực lực yếu và non kém về công nghệ.
Theo đó cho rằng, nước ta cần nhanh chóng có các giải pháp “nóng”, đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế, áp dụng hệ thống khuyến khích “thưởng người thắng”; đoạn tuyệt với hệ thống phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc “xin – cho”. Đây là nguồn gốc cơ bản và trực tiếp của hệ thống tham nhũng, lãng phí, làm méo mó toàn bộ cấu trúc thị trường…
Còn theo doanh nghiệp, để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ thiết thực hơn, thực thi hiệu quả hơn và tạo lập môi trường kinh doanh “công khai và minh bạch”.
Hàng Việt cần nâng ‘tầm’ ngay trên ‘sân nhà’
Thống kê của Bộ Công thương cho thấy, tại thị trường nội địa, hàng Việt được người tiêu dùng trong nước lựa chọn. Tỷ lệ hàng Việt tại các hệ thống phân phối hiện đại được duy trì ở mức cao với 90% - 95%, điển hình tại Coop.mart chiếm 90% - 93%, ở Satra: 90% - 95%, Vinmart là 96%, Hapro là 95%... Tại các kênh phân phối nước ngoài, tỷ lệ hàng Việt cũng chiếm 65% - 96%.
Tuy nhiên, các chuyên gia lo lắng, tham gia sân chơi FTA, doanh nghiệp Việt đứng trước cuộc cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa nhập khẩu ồ ạt vào thị trường nội địa nhờ ưu đãi thuế quan ngay tại chính “sân nhà”.
Khảo sát cho thấy, trong sản xuất kinh doanh, hàng Việt đã biết khai thác yếu tố văn hoá dân tộc, đặc sản vùng miền để tiếp cận người tiêu dùng. Tính đến thời điểm hiện tại, cả nước đã có 45 tỉnh, thành phố tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm với hơn 2.049 sản phẩm OCOP (chương trình mỗi xã phường một sản phẩm) được công nhận đạt chuẩn từ 3 sao trở lên, trong đó có 43 sản phẩm tiềm năng 5 sao. Tổng số sản phẩm dự kiến được chuẩn hoá OCOP đến năm 2020 là trên 3.800 sản phẩm.
Đơn cử, theo đánh giá từ Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu (EuroCham), khi FTA Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực, đến năm 2035 hàng xuất khẩu của EU sang Việt Nam sẽ tăng khoảng 29%, tương đương 15 tỷ USD. Đó là còn chưa kể hàng hoá từ các quốc gia khác như Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc... đã và đang xâm nhập mạnh mẽ vào thị trường trong nước.
Trong khi đó, theo Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương), hàng Việt còn những yếu thế về chất lượng và giá cả. Hơn nữa, hoạt động phân phối còn yếu kém và phải đối mặt với nạn hàng lậu, hàng nhái, hàng giả mạo nhãn hiệu...
Do đó, theo các chuyên gia, để không bị mất thị phần ngay tại “sân nhà” thì các doanh nghiệp Việt các doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch dài hạn, bài bản, cần nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh thông qua ứng dụng khoa học và công nghệ.
“Các doanh nghiệp nên chủ động hợp tác, liên kết để nâng cao sức mạnh, tạo chuỗi cung ứng thông qua thúc đẩy liên kết sản xuất để hoàn thiện chuỗi giá trị từ sản xuất, canh tác, chế biến và phân phối đến người tiêu dùng" - đại diện Vụ Thị trường trong nước nhấn mạnh./.
3.Hội thảo về rào cản phi thuế quan trong các Hiệp định thương mại tự do
Sáng 29-10, Trung tâm WTO - Sở Công thương thành phố Đà Nẵng phối hợp với Dự án Hỗ trợ Chính sách thương mại và đầu tư của Châu Âu (EU-MUTRAP) tổ chức Hội thảo "Rào cản phi thuế quan – Những vấn đề thương mại mới trong các Hiệp định thương mại tự do" với mục đích hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhìn nhận những mặt tích cực cũng như giảm thiểu những tác động tiêu cực của rào cản phi thuế.
Theo Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, thương mại song phương giữa Việt Nam và ASEAN đã tăng 4 lần, từ 9 tỷ USD năm 2003 lên 40 tỷ USD trong năm 2013. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN năm 2013 đạt 18.47 tỷ USD, tăng 4.4% so với năm 2012. ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ và EU.
Việc tham gia các Hiệp định thương mai tự do (FTA) đang mở ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế, đặc biệt là cơ hội xuất khẩu với thuế quan ưu đãi và thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng nổi lên việc áp dụng các rào cản phi thuế nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, bảo đảm đảm bảo môi trường, an ninh, sức khoẻ của người dân hoặc vì những mục tiêu nhất định của các nước công nghiệp phát triển.
Các ý kiến trao đổi cho thấy mức độ sử dụng các biện pháp phi thuế (NTMs) trong ASEAN còn khiêm tốn so với các khu vực khác trên thế giới; tác động đến thương mại không khác nhiều những nước ngoài ASEAN; và việc áp dụng NTMs chung với nhiều mặt hàng trong ASEAN cũng khá gần với các thông lệ quốc tế. Ở Việt Nam, trước 2010, NTMs còn tương đối ít, chủ yếu do năng lực thiết kế còn hạn chế và lo ngại bị kiện hoặc trả đũa. Từ 2010 đến nay, NTMs phổ biến hơn, tuy nhiên còn nhiều thông tin trái chiều.
Hội thảo cũng trao đổi chi tiết các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) và các rào cản kỹ thuật (TBT) tập trung vào các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Đây là các đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam hiện nay. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này đạt lần lượt là 13,3; 13,7 và 6,6 tỷ USD. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu ở một số mặt hàng tiềm năng của Việt Nam vào thị trường này vẫn còn thấp. Một trong những nguyên nhân chính là các rào cản thương mại, bao gồm SPS và TBT. Nhật Bản và Hàn Quốc, có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật được xây dựng một cách chuyên nghiệp, ở mức độ cao, thậm chí cao hơn so với tiêu chuẩn Châu Âu. Trung Quốc là thị trường có phần “dễ tính” hơn với các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế Trung Quốc có hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật chi tiết và phức tạp hơn tiêu chuẩn quốc tế phổ biến.
Tại Hội thảo, các ý kiến của đại biểu nhận định rằng, đối với thị trường này, NTMs được áp dụng ổn định, thường xuyên và liên tục. Do đó, muốn tăng cường xuất khẩu vào các thị trường này, đòi hỏi ngoài việc tuân thủ mà cần chú trọng những thay đổi quan trọng đối với hàng hoá thành phẩm xuất khẩu; quá trình nuôi trồng, khai thác nguyên liệu; và quy trình chế biến, đóng gói, vận chuyển sản phẩm.
4.Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu có thể tăng trưởng 3 – 4%
Bộ Công Thương dự báo, năm 2020, kim ngạch xuất khẩu cả nước vẫn có thể tăng trưởng 3 – 4%. Đây là kết quả đáng ghi nhận trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên thế giới làm đứt gãy thương mại quốc tế.
Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, tính chung 9 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 8,4%). Đáng chú ý, trong quý III/2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 80,07 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước và tăng 34% so với quý II/2020 (tăng 26,6% so với quý I/2020).
Đây là kết quả rất tích cực, bởi theo tính toán của Trung tâm Thương mại Quốc tế, kim ngạch xuất khẩu của 44 quốc gia có số liệu thống kê đến hết tháng 7 vừa qua giảm tới 12,4%. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều quốc gia lân cận như Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ... đều tăng trưởng âm.
Đáng chú ý, khu vực kinh tế trong nước tiếp tục là động lực cho sự tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu cả nước khi kim ngạch xuất khẩu 9 tháng của khu vực này đạt tới 71,4 tỷ USD, tăng mạnh 19,5%, chiếm 35,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 131 tỷ USD, giảm 2,8%, chiếm 64,6%.
Như vậy, sau khi đạt mức tăng trưởng khá cao trong năm 2018, 2019, khối doanh nghiệp trong nước tiếp tục là điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong 9 tháng năm 2020 với mức tăng 19,5%, cao hơn 4 lần so với tốc độ tăng trưởng chung cả nước (đạt 4,1%) và đặt trong bối cảnh xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI tăng trưởng âm (giảm 2,8%).
Trong 9 tháng có 30 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 91,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 59,8%.
Nửa đầu tháng 10/2020, kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước tiếp tục duy trì kết quả khả quan khi đã đạt gần 25 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 12,72 tỷ USD, nhập khẩu đạt 11,92 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng gần 9,5 tỷ USD (tương đương tăng 4,6%).
Đáng chú ý, Việt Nam đã tận dụng tốt các ưu đãi về thuế quan trong các FTA đã ký kết để mở rộng các thị trường xuất khẩu mới. Đặc biệt, EVFTA có hiệu lực và đi vào thực thi từ ngày 1/8/2020 với các cam kết cắt giảm thuế quan của các đối tác đối với hàng có xuất xứ Việt Nam đã làm tăng khả năng cạnh tranh và giúp hàng hóa của Việt Nam mở rộng thị phần tại các thị trường đối tác, là động lực thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu.
Kể từ khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có hiệu lực (từ ngày 1/8) đến ngày 12/10, sau chưa đầy 2 tháng rưỡi thực thi Hiệp định, các tổ chức được ủy quyền đã cấp khoảng 23.800 bộ C/O mẫu EUR.1 với kim ngạch khoảng 963 triệu USD đi 28 nước EU.. Các mặt hàng đã được cấp C/O mẫu EUR.1 chủ yếu là giày dép, thủy sản, nhựa và các sản phẩm nhựa, cà phê, hàng dệt may, túi xách, va li, rau quả, sản phẩm mây, tre, đan; nông sản; hàng điện tử... Thị trường nhập khẩu đa phần là các nước có cảng biển và trung tâm phân phối, trung chuyển của EU như Bỉ, Đức, Hà Lan, Pháp, Anh quốc. Trong đó, nhiều lô hàng đã tới thị trường EU, thông quan và được hưởng ưu đãi. Điều này cho thấy, mức độ quan tâm của doanh nghiệp cũng như tầm quan trọng của thị trường này đối với xuất khẩu của Việt Nam.
Chỉ tính riêng tháng 8, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đã đạt 3,25 tỷ USD, tăng 4,65% so với tháng 7 và tăng 4,2% so với cùng kỳ, đưa kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường EU đạt 22,76 tỷ USD, tăng gần 500 triệu USD so với bình quân 7 tháng đầu năm (bình quân 7 tháng là 2,79 tỷ USD). Sang tháng 9, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tiếp tục duy trì đà tăng mạnh, tăng khoảng 14,4% so với cùng kỳ.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực tại thị trường EU sau hơn 2 tháng EVFTA được thực thi. Điển hình, xuất khẩu thủy sản có số lượng đơn hàng tăng khoảng 10% so với tháng 7; kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó xuất khẩu tôm tháng 8/2020 tăng 15,7% so với cùng kỳ (đạt mức tăng trưởng cao nhất kể từ đầu năm nay).
Bên cạnh thủy sản, gạo Việt xuất khẩu sang châu Âu cũng có những tín hiệu khả quan khi giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU đã tăng phổ biến từ 80-200 USD/tấn, tùy loại so với thời điểm trước khi EVFTA có hiệu lực. Ngoài ra, nhiều mặt hàng khác như điện thoại và linh kiện, máy móc, thiết bị phụ tùng, dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ, cà phê… cũng đang được nhận định kỳ vọng lớn trong việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này thời gian tới.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh, Bộ Công Thương đã tiến hành rà soát kỹ từng lĩnh vực, ngành hàng để cập nhật lại kịch bản điều hành, xem xét các giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu cho những tháng cuối năm. Qua đánh giá cho thấy các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và thương mại nội địa cả năm 2020 đều có thể đạt kết quả tích cực hơn so với đánh giá hồi tháng 7/2020.
- KẾ HOẠCH Tổ chức Hội nghị giao thương quốc tế - Kết nối, nâng tầm cà phê Việt (09-11-2020)
- MỜI THAM GIA HỘI CHỢ FESTIVAL HOA ĐÀ LẠT NĂM 2024 (09-11-2020)
- Mời tham gia Đoàn giao dịch thương mại và đầu tư tại Cộng hoà Ba Lan, Cộng hoà Séc và Thụy Sỹ (09-11-2020)
- Triển lãm và Hội thảo quốc tế lần thứ 7 về công nghệ sản xuất và chế biến Rau, Hoa, Quả HORTEX VIETNAM 2025 (09-11-2020)
- “Hội chợ Triển lãm Xúc tiến Thương mại Vùng Biên giới - Đồng Tháp năm 2024”. (09-11-2020)