BÁO CÁO CHUYÊN SÂU PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CÁC HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG THÁNG 08/2020 (02-11-2020)

Khủng hoảng Covid-19 và vai trò của thuận lợi hóa thương mại trong điều kiện “bình thường mới

Ban Thư ký WTO đã công bố một báo cáo cập nhật tình hình các nước thành viên WTO sử dụng các biện pháp thương mại đối với việc tiếp cận các hàng hóa thiết yếu và dịch vụ y tế trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

Các chính phủ trên toàn thế giới đã thực hiện một số biện pháp xuất nhập khẩu như một phần trong nỗ lực của họ nhằm hạn chế sự lây lan của dịch bệnh Covid-19 và đảm bảo họ có các nguồn lực cần thiết để chống lại căn bệnh này.

Theo thống kê của WTO, tính đến hết tháng 7 năm 2020, 95 quốc gia đã áp dụng các biện pháp hạn chế hoặc cấm xuất khẩu các sản phẩm liên quan đến phòng chống dịch (như thiết bị bảo vệ cá nhân, dược phẩm và dung dịch rửa tay, kháng khuẩn...). Ngoài ra, còn có nhiều biện pháp can thiệp thương mại khác không liên quan trực tiếp đến các sản phẩm này nhưng được đưa ra với một lý do chung là “nhằm ứng phó khẩn cấp với dịch bệnh”.

Mặc dù các biện pháp này có thể chỉ mang tính ứng phó tạm thời, nhưng lại có những hậu quả tức thì và thường là bất ngờ đối với thương mại thế giới không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai. Do đó, theo WTO, bất kỳ biện pháp nào làm trầm trọng thêm các thách thức tạo thuận lợi thương mại trên thế giới cần phải hủy bỏ sớm. Ngược các biện pháp mang tính tạm thời nhưng có lợi về lâu dài, được áp dụng như một biện pháp ứng phó thông minh với khẩn cấp, nên được chính thức hóa.

Để hiểu chi tiết hơn về cách mà đại dịch COVID-19 đang ảnh hưởng đến việc vận chuyển hàng hóa qua biên giới và xác định cách thức thực hiện Hiệp định Tạo thuận lợi Thương mại của WTO (TFA) có thể xoa dịu tình hình, cơ quan thực hiện Hiệp định Tạo thuận lợi Thương mại của WTO (TFAF), Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) và Liên minh Toàn cầu về Tạo thuận lợi Thương mại đã quyết định thực hiện một cuộc khảo sát trực tuyến về  vấn đề này, với các đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp, chính phủ và các nhóm liên quan khác.

Mục Thông tin chuyên sâu kỳ này phân tích những kết quả chính và khuyến nghị các nước tập trung thực hiện FTA để cải thiện tình hình thương mại quốc tế, vốn đang chịu nhiều tác động tiêu cực bởi Covid-19.

Cuộc khảo sát của WTO yêu cầu các đại diện ở khu vực công và khu vực tư nhân của mỗi nước xác định các quy trình nhập khẩu, xuất khẩu và quá cảnh đang trở nên phức tạp hơn hoặc tốn thời gian hơn và ngược lại, những quy trình đã được đơn giản hóa, thuận lợi hóa. Những người được hỏi cũng được yêu cầu kiến nghị những quy trình, thủ tục sẽ tác động tích cực nhất nếu được thực hiện trong hoàn cảnh hiện tại của mỗi nước.

Nhìn chung, các câu trả lời cho thấy rằng trong bối cảnh nỗ lực ngăn chặn COVID-19 trên toàn cầu, phần lớn các quy trình thương mại được khảo sát đều trở nên cồng kềnh hoặc tốn thời gian hơn. Các biện pháp kiểm soát xuất nhập khẩu (ví dụ như kiểm tra, kiểm dịch... được xác định là gây khó khăn lớn nhất.

 Ở các nước kém phát triển nhất, làm thế nào để tự do quá cảnh cũng được coi là một thách thức đáng kể. Đặc biệt, các quốc gia không giáp biển phải đối mặt với tình trạng tồn đọng hàng hóa trên xe tải ở biên giới do các hạn chế di chuyển.

Giải phóng và thông quan hàng hóa cũng trở nên phức tạp hơn với 17% số người được hỏi lựa chọn.

Ngoài ra có 6% số người được hỏi đã chủ động liệt kê ra những khó khăn, trở ngại khác, tập trung vào các nhóm sau đây:

• Không đủ chỗ chứa, lưu kho hàng và chi phí vận tải hàng không cao hơn (do giảm tần suất các chuyến bay và tàu biển);Phí lưu trữ bổ sung;

• Giờ giới nghiêm hạn chế việc di chuyển hàng hóa;

• Các yêu cầu mới về an toàn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, vận tải;

• Các nhà nhập khẩu / xuất khẩu không thể chuyển container ra khỏi bến trong thời gian áp dụng  nghiêm ngặt các quy định về cách ly toàn xã hội (lockdown).

Tuy nhiên, một tín hiệu tích cực là theo nhiều người được hỏi ở các nước thuộc các trình độ phát triển khác nhau, các chính phủ đã giúp việc tiếp cận thông tin liên quan đến thương mại dễ dàng hơn.

       So sánh tình hình theo trình độ phát triển của các nền kinh tế:

Có một số điểm tương đồng trong phản hồi của các quốc gia ở cùng một trình độ phát triển.

Kiểm soát nhập khẩu/ xuất khẩu được người trả lời ở các nước đang phát triển coi là khó khăn lớn nhất, trong khi những người được hỏi thuộc nhóm nước kém phát triển cho rằng cả kiểm soát xuất nhập khẩu và tự do quá cảnh là thách thức lớn nhất. Đối với các nước phát triển, việc giải phóng và thông quan hàng hóa được coi là phức tạp và tốn thời gian nhất, theo sau là kiểm soát xuất nhập khẩu và tự do quá cảnh.

Trong tương lai, cải thiện khả năng tiếp cận thông tin liên quan đến thương mại và phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan biên giới được xác định là hai hành động của Chính phủ sẽ có tác động tích cực nhất trong bối cảnh hiện nay. Việc thực hiện các biện pháp này và các biện pháp khác trong TFA, có thể làm giảm tác động tiêu cực của Covid-19 và thúc đẩy luồng hàng hóa qua biên giới.

       So sánh giữa các khu vực:

Sự phối hợp và hợp tác của các cơ quan ở biên giới được xác định là quá trình sẽ có tác động tích cực nhất đến thương mại tại 5 trong tổng cộng 8 khu vực trên thế giới. Tiếp cận thông tin liên quan đến thương mại nhận được nhiều phản hồi nhất ở châu Á, đồng thời cũng được coi là quan trọng ở châu Phi, châu Mỹ Latinh, khu vực Thái Bình Dương và Bắc Mỹ.

Vùng Caribe và Trung Đông không có phản hồi về việc tiếp cận thông tin liên quan đến thương mại nhưng nhấn mạnh đến sự phối hợp và hợp tác của các cơ quan biên giới.

Một số ý kiến riêng lẻ cũng đáng được lưu ý như: Khuyến khích thanh toán điện tử và cơ chế một cửa; xét nghiệm đối với người gửi hàng/người vận chuyển để hạn chế nguy cơ lây nhiễm qua quá trình lưu thông hàng hóa, trong khi cần áp dụng công nghệ hiện đại để giảm thời gian kiểm dịch nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả.

Các phản hồi từ khu vực Thái Bình Dương và Mỹ Latinh nhấn mạnh đến việc kiểm soát xuất nhập khẩu trong khi ở Châu Âu, kiểm soát tài liệu xuất nhập khẩu là quan trọng.

       WB khuyên Việt Nam 3 hướng hành động thúc đẩy kinh tế phục hồi sau COVID-19

Một trong những động lực thúc đẩy kinh tế mà Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB) đề xuất cho Chính phủ Việt Nam là tập trung vào chính sách tài khóa, là công cụ truyền thống để kích thích khôi phục kinh tế. “Đối với Việt Nam, chính sách đó không nhất thiết có nghĩa là phải chi nhiều hơn mà nên đẩy nhanh tốc độ triển khai ngân sách đầu tư đã phê duyệt, theo WB.

“Chúng tôi nhận thấy rằng nền kinh tế Việt Nam thể hiện khả năng chống chịu đáng kể trong khủng hoảng COVID-19, tốt hơn nhiều so với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, con đường phục hồi có thể vẫn còn trắc trở do vẫn còn nhiều bất định cả trong nước và trên toàn cầu”, Báo cáo“Trạng thái bình thường mới ở Việt Nam sẽ ra sao? Tác động kinh tế của COVID-19” do Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB) vừa công bố đưa ra nhận định.

Đầu năm 2020, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dựa vào cả nhu cầu của nước ngoài và tiêu dùng trong nước. Hai động lực trên đóng góp đến trên 75% tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2016-2019 trên cơ sở tăng trưởng cao về xuất khẩu và tiêu dùng tư nhân.

Trong thời gian tới, theo WB, hai động lực trên khó có thể ngay lập tức quay lại các mức trước khủng hoảng. Nhu cầu của nước ngoài vẫn còn yếu vì nhiều quốc gia trên thế giới vẫn bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, khiến cho tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và hoạt động du lịch sẽ chững lại. Đồng thời, tiến trình phục hồi trong nước có thể thấy được ngay sau khi gỡ bỏ hầu hết các biện pháp giãn cách xã hội được cho là không kéo dài.

Phần lớn doanh nghiệp và hộ gia đình trong nước có lẽ còn áp dụng các kế hoạch đầu tư và tiêu dùng thận trọng. Hành vi tránh rủi ro như vậy là đương nhiên trong bối cảnh còn nhiều bất định trong nước và trên toàn cầu, theo WB

Vì quá trình quay lại quỹ đạo tăng trưởng như trước COVID-19 có thể mất thời gian, WB khuyến nghị, Chính phủ lúc này cần tìm mọi cách để kích thích kinh tế trong vài tháng tới sao cho không gây hại về bền vững tài khóa và bền vững nợ về lâu dài.

Với tầm nhìn như vậy, WB cho rằng, các nhà hoạch định chính sách ở Việt Nam cần cân nhắc ba hướng hành động.

Một là, phải tiếp tục từng bước nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội và hạn chế đi lại, từng bước mở cửa quốc gia để đón khách quốc tế đồng thời tìm ra giải pháp tốt nhất cho nhu cầu kinh tế và y tế. Mở cửa biên giới sẽ giúp đẩy mạnh ngành du lịch, hiện đóng góp đến gần 10% GDP của Việt Nam, cho phép khách doanh nghiệp nhập cảnh khi quốc gia đặt mục tiêu thu hút thêm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Chính phủ có thể cân nhắc chủ động thỏa thuận với các quốc gia “an toàn” để thống nhất về cơ chế đi lại chung và/hoặc cân nhắc kế hoạch cho phép và thu hút khách du lịch cao cấp có thể chi trả cho các chuyến bay thuê bao/thương mại đắt tiền và toàn bộ chi phí liên quan đến kiểm dịch và/hoặc biện pháp y tế dự phòng sau khi nhập cảnh Việt Nam.

Hai là, tập trung vào chính sách tài khóa, là công cụ truyền thống để kích thích khôi phục kinh tế trong thời gian tới. Đối với Việt Nam, chính sách đó không nhất thiết có nghĩa là phải chi nhiều hơn mà nên đẩy nhanh tốc độ triển khai ngân sách đầu tư đã phê duyệt. Nếu Chính phủ có khả năng nâng cao tốc độ triển khai ngân sách được phê duyệt cho năm 2020 từ 65 lên 75%, tỷ lệ đầu tư công trên GDP sẽ tăng thêm 1,5 điểm phần trăm GDP, qua đó trực tiếp bơm khoảng 4 tỷ USD vào nền kinh tế trong nước. Điều này dù sao cũng đòi hỏi Chính phủ có hành động cụ thể nhằm cải thiện vê quản lý chương trình đầu tư công.

Ba là, hỗ trợ khu vực tư nhân phục hồi. Tuy nhiên, WB cho rằng, các cấp có thẩm quyền nên thực hiện theo cách có lựa chọn chứ không nên dùng nguồn lực để hỗ trợ cho mọi doanh nghiệp. Như đã nêu trên, không phải doanh nghiệp nào cũng bị khủng hoảng COVID-19 gây ảnh hưởng như nhau.

Một số ít bị ảnh hưởng bởi các biện pháp giãn cách xã hội, chẳng hạn tại khu vực nông thôn. Nhiều doanh nghiệp có khả năng phục hồi tương đối nhanh ngay sau khi Chính phủ gỡ bỏ hầu hết các biện pháp hạn chế đi lại trong nước vào cuối tháng 4. Điều này đặc biệt đúng với các doanh nghiệp nhỏ ở khu vực phi chính thức có khả năng linh hoạt để tái mở cửa và đáp ứng được nhu cầu trong nước tăng lên; doanh số bán lẻ tăng đến 10% vào tháng 5 và tháng 6.

Các doanh nghiệp khác, chủ yếu là doanh nghiệp lớn ở khu vực chính thức, được hưởng lợi từ vốn vay linh hoạt của ngân hàng và các biện pháp giãn thuế được triển khai trong gói hỗ trợ tài khóa được ban hành đầu tháng 4. Do vậy, WB cho rằng Chính phủ nên quan tâm nhiều hơn về đối tượng hỗ trợ tài chính, nếu không rủi ro sẽ là lãng phí nguồn lực công khan hiếm và gửi tín hiệu sai cho thị trường.

Sau khi xác định được những doanh nghiệp phải đối mặt với khó khăn kéo dài do khủng hoảng COVID-19 gây ra, Chính phủ cần cân nhắc giúp những đối tượng dự kiến có thể tiếp tục tồn tại và phục hồi nhanh chóng. Để tránh tác động tiêu cực kéo dài cho nền kinh tế và người lao động, điều hết sức quan trọng là các doanh nghiệp có thể đứng vững không được thoái lui và các tổ chức tài chính phải tiếp tục tạo điều kiện tiếp cận tín dụng và vốn lưu động cho doanh nghiệp theo cách bền vững.

Ngoài ra, WB cũng khuyến cáo, tại Việt Nam, Chính phủ phải nghĩ cách sao cho hỗ trợ các doanh nghiệp tốt nhất ít nhất ở hai ngành sau:

Thứ nhất là ngành du lịch, vốn đóng góp đến 7,9% GDP và sử dụng trực tiếp 750.000 người lao động trong năm 2017. Lệnh cấm du khách quốc tế (lên đến 18 triệu người năm 2019) và hạn chế vận tải hành khách trong nước từ tháng 3-4 gây tác động mạnh cho ngành. Mặc dù các biện pháp hạn chế trong nước được nới lỏng dẫn đến du lịch trong nước phần nào được phục hồi trong tháng 5 và tháng 6, nhưng chưa thể bù đắp được cho những tổn thất của ngành. Đến nay, hầu hết các doanh nghiệp trong ngành vẫn gặp khó khăn về tài chính.

Thứ hai là ngành chế tạo chế biến hàng xuất khẩu. Mặc dù ngành này nhìn chung đã phục hồi trong hai tháng qua, nhưng các ngành công nghiệp xuất khẩu có nguy cơ dễ tổn thương do sức cầu nước ngoài đang yếu đi. Thực chất, ngoại trừ các mặt hàng máy tính và linh kiện, kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ các mặt hàng đều bị suy giảm trong sáu tháng qua, và xu hướng đi xuống tiếp tục tăng tốc theo thời gian.

Chính phủ có thể áp dụng các giải pháp tài khóa như giãn và hoãn thuế tạm thời, trợ cấp và giảm phí, hoặc hỗ trợ tiền trực tiếp một cách hợp lệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) có lịch sử tín dụng tốt và có khả năng hoàn trả; trợ cấp một lần cho các doanh nghiệp có quy mô ở khu vực phi chính thức đang muốn chuyển sang khu vực chính thức; cơ cấu cứu trợ đặc biệt nhằm cho vay vốn lưu động cho doanh nghiệp vừa và nhỏ theo trần lãi suất hàng năm trong một giai đoạn hạn chế; quỹ đoàn kết ngành du lịch nhằm quảng bá các điểm đến đặc biệt của hội đồng ngành du lịch; thẻ chiết khấu du lịch qua phối hợp với hàng không, khu nghỉ dưỡng, khách sạn; miễn giảm thuế thu nhập cho các cá nhân có phát sinh chi tiêu cho du lịch trong nước.

Việt Nam đến nay đã có những động thái theo hướng này, cụ thể thông qua hàng loạt các biện pháp của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước nhằm nới lỏng điều kiện tín dụng và áp lực thanh khoản bằng các gói hỗ trợ tài khóa do Chính phủ công bố đầu tháng

Nhưng có ý kiến cho rằng cần phải làm nhiều hơn nữa để hỗ trợ khu vực tư nhân, Chính phủ cũng cần khuyến khích quá trình tái phân bổ nguồn lực từ các doanh nghiệp dự kiến khó có thể phục hồi nhanh chóng sang các hoạt động đem lại lợi nhuận cao hơn. Chẳng hạn tại Singapore, tài xế lái taxi được khuyến khích chuyển sang giao hàng hoặc đặt hàng trực tuyến, khối lượng đã tăng nhanh chóng trong đại dịch. Tương tự, các nền tảng số an toàn cần được khuyến khích phát triển để lĩnh vực khám chữa bệnh từ xa được phát triển, các cửa hàng có thể mở ra kinh doanh trực tuyến, báo cáo của WB cho hay.

       Kết luận và khuyến nghị chính sách:

Những khó khăn được các doanh nghiệp và chính phủ xác định cho thấy rõ các bên liên quan cần sớm hành động để quá trình thông quan qua biên giới trở nên đơn giản nhất có thể. Những người trả lời khảo sát, cả cán bộ trong cơ quan nhà nước và khu vực tư nhân, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin theo cách dễ dàng tiếp cận; và các cơ quan biên giới phải hợp tác và phối hợp để giảm thiểu và hợp lý hóa các thủ tục.

Hơn nữa, cần cải tiến, hiện đại hóa các biện pháp kiểm soát xuất nhập khẩu, để một mặt đảm bảo mục tiêu phòng chống dịch, mặt khác đẩy nhanh việc giải phóng và thông quan hàng hóa, đặc biệt là những hàng hóa cần thiết trong thời kỳ khủng hoảng.

Phương tiện quan trọng mà các quốc gia có thể làm là thực hiện đầy đủ các quy định của TFA. Trong đó, TFA có một số điều khoản nhằm cung cấp sự minh bạch và dễ dàng tiếp cận thông tin về nhập khẩu, xuất khẩu và quá cảnh. Các biện pháp này đặc biệt quan trọng trong điều kiện hiện nay do các quy tắc về quy trình tại biên giới thay đổi để đáp ứng với các yêu cầu thời kỳ dịch bệnh.

TFA yêu cầu công bố thông tin về thủ tục biên giới, thuế suất, phí và lệ phí; quy tắc phân loại, định giá và xuất xứ; pháp luật và các quy định; hạn chế hoặc cấm đoán. Cần tổ chức tham vấn thường xuyên giữa các cơ quan chính phủ và khu vực tư nhân để giúp khu vực tư nhân hiểu rõ hơn về các quy định, đồng thời là một diễn đàn để họ cung cấp thông tin đầu vào cho quá trình hoạch định và ban hành chính sách.

Ngoài ra, TFA yêu cầu các Ủy ban Tạo thuận lợi Thương mại cấp Quốc gia (NTFC) được thành lập để giám sát việc điều phối trong nước và thực hiện Hiệp định; tập hợp khu vực công và tư nhân để cải cách các chương trình thuận lợi hóa thương mại.

Theo TFA, các thành viên cũng phải đảm bảo rằng các cơ quan biên giới hợp tác với nhau và điều phối các hoạt động và yêu cầu của họ để cố gắng loại bỏ sự trùng lặp, chồng chéo. Như đã đề cập ở trên, việc thiếu sự phối hợp trong các vấn đề liên quan đến kiểm soát xuất nhập khẩu (ví dụ như kiểm tra và thanh tra) là cản trở lớn trong thương mại thời kỳ khủng hoảng COVID-19. Hợp tác cơ quan biên giới tốt là điều kiện quan trọng để thực hiện nhiều điều khoản của Hiệp định, chẳng hạn như cơ chế một cửa và công bố thời gian trung bìnhđể giải phóng hàng hóa.

TFA cũng yêu cầu phối hợp các thủ tục biên giới với các nước láng giềng trong phạm vi có thể, ví dụ bao gồm kiểm soát chung và sắp xếp các thủ tục, quy trình, ngày và giờ làm việc.