BÁO CÁO CÁC HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC THÁNG 06/2021 (09-07-2021)

  1. Các hoạt động phục vụ thuận lợi hóa thương mại tình hình trong nước

 

1. Bộ Công Thương khuyến cáo các doanh nghiệp xuất khẩu sang EAEU

Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) vừa đưa ra khuyến cáo doanh nghiệp chủ động trong kế hoạch xuất khẩu hàng hóa sang khu vực Liên minh Kinh tế Á – Âu (EAEU). Khu vực Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU gồm 5 nước: Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia và Kyrgyzstan) sau khi khối này đã điều chỉnh danh sách các nước được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hệ thống ưu đãi thuế quan thống nhất (GSP); trong đó có Việt Nam.

Theo đó, kể từ ngày 12/10/2021, Việt Nam sẽ chính thức không còn được hưởng ưu đãi GSP của khu vực EAEU. Sự thay đổi này dự kiến sẽ có tác động mạnh đến các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu hàng hóa đang được hưởng ưu đãi GSP sang thị trường các nước EAEU, đặc biệt là Nga, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối này.

Cục Xúc tiến thương mại cũng lưu ý, doanh nghiệp cần tìm hiểu về mức thuế ưu đãi và quy tắc xuất xứ tương ứng để tận dụng ưu đãi thuế quan từ Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EAEU thay thế cho cơ chế GSP sẽ chấm dứt trong thời gian tới.

Trước đó, tại Công điện số 157/SQVN-21 của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga thông báo về việc EAEU đã điều chỉnh danh sách các nước được hưởng ưu đãi thuế quan theo Hệ thống ưu đãi thuế quan thống nhất (GSP) của Liên minh.

Quyết định số 17 ngày 5/3/2021 của Hội đồng Ủy ban Kinh tế Á - Âu cũng nêu rõ, 75 nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam và 2 nước kém phát triển sẽ bị loại ra khỏi danh sách các nước được hưởng ưu đãi GSP từ ngày 12/10/2021. GSP là ưu đãi về thuế quan nhập khẩu mà EAEU đơn phương dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển, trong đó có Việt Nam.

Đối với Việt Nam, ưu đãi này đã có thể dừng ngay sau khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam - EAEU có hiệu lực. Tuy nhiên, EAEU đã thể hiện thiện chí bằng việc cho Việt Nam tiếp tục hưởng GSP thêm 5 năm, kể khi Hiệp định VN-EAEU FTA có hiệu lực vào năm 2016. Do đó, năm 2021, phía EAEU đã rà soát lại danh sách và loại ra nhiều nước trên cơ sở tiêu chí của EAEU; trong đó có các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn độ, Singapore, Brunei, Việt Nam...

Thống kê cho thấy, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, kim ngạch thương mại giữa EAEU và các đối tác thương mại chính đã giảm đáng kể. Đặc biệt, thương mại song phương Việt Nam - EAEU năm 2020 đạt 5,2 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019; trong đó xuất khẩu từ Việt Nam sang EAEU đạt khoảng 3,1 tỷ USD, tăng 7,2% so với năm 2019, nhập khẩu từ EAEU khoảng 2,1 tỷ USD, tăng 5,5% so với năm 2019.

Đáng lưu ý, trong EAEU, quan hệ thương mại của Việt Nam với Liên bang Nga hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất, gần 93,7%. Tuy nhiên, quan hệ song phương của Việt nam với 4 nước thành viên còn lại khá khiêm tốn như thương mại song phương Việt Nam với Cộng hòa Kazakhstan chiếm 4,6%, Cộng hòa Belarus chiếm khoảng 1,4%, Armenia và Kyrgystan là khoảng 0,12%./.

2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số

Chính phủ số sẽ được hình thành vào năm 2025. Chuyển đổi từ Chính phủ điện tử thành Chính phủ số là sự chuyển đổi có tính căn bản.

Thủ tướng Chính phủ vừa mới ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030. Đây là một bước ngoặt quan trọng của công cuộc chuyển đổi số nói chung và phát triển Chính phủ số nói riêng của Việt Nam.

Lần đầu tiên đưa ra nội hàm khái niệm Chính phủ số

Chiến lược vừa được Thủ tướng ban hành chính là văn bản đầu tiên đưa ra nội hàm khái niệm chính phủ số. Chính phủ số bản chất là Chính phủ điện tử, bổ sung những thay đổi về cách tiếp cận, cách triển khai mới nhờ vào sự phát triển của công nghệ số. Vì vậy, khi nói phát triển chính phủ số chính là nói phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số đã bao hàm Chính phủ điện tử.

Theo Phó Cục trưởng Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, chiến lược xác định rõ quan điểm là phát triển Chính phủ số có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình hoạt động được thiết kế lại và vận hành dựa trên dữ liệu và công nghệ số, để có khả năng cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.

Phát triển Chính phủ số một cách tổng thể, toàn diện, phát huy kết quả đạt được, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, có giải pháp, cách làm đột phá, mang tính khác biệt, để cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu phát triển Chính phủ điện tử vào năm 2021 và hình thành Chính phủ số vào năm 2025.

Chính phủ điện tử, hiểu một cách đơn giản, là "bốn Không", có khả năng họp không gặp mặt, xử lý văn bản không giấy, giải quyết thủ tục hành chính không tiếp xúc và thanh toán không dùng tiền mặt.

Chính phủ số là chính phủ điện tử, thêm "bốn Có", có toàn bộ hành động an toàn trên môi trường số, có khả năng cung cấp dịch vụ mới nhanh chóng, có khả năng sử dụng nguồn lực tối ưu và có khả năng kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.

           Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam có chỉ số phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số ở mức độ cao trên thế giới, thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu vào năm 2025, thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu vào năm 2030 theo xếp hạng của Liên Hợp Quốc. Theo đó, lần đầu tiên, các địa phương sẽ xây dựng phương án bảo đảm kinh phí hàng năm từ ngân sách nhà nước cho chính phủ số, phấn đấu tỷ lệ chi cao hơn mức trung bình trên thế giới. Các nước hiện dành tỷ lệ chi khoảng 1-2% tổng chi ngân sách nhà nước cho chính phủ số, cá biệt, một số nước như Singapore, Hàn Quốc dành tỷ lệ chi cao hơn.

Không phải cá lớn nuốt cá bé mà cá nhanh nuốt cá chậm

Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những quốc gia tiên phong, đi trước, hành động nhanh sẽ có cơ hội phát triển đột phá. nói cách khác, ở kỷ nguyên số, không phải cá lớn nuốt cá bé mà cá nhanh nuốt cá chậm. Chiến lược đặt ra mục tiêu cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu phát triển chính phủ điện tử vào năm 2021 và hình thành chính phủ số vào năm 2025.

Nền tảng số được xác định là giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển chính phủ số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Nền tảng được tạo ra bởi những doanh nghiệp công nghệ số xuất sắc, cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng ngay dưới dạng dịch vụ thay vì phải tự đầu tư, tự vận hành.

Theo Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, điều quan trọng nhất của Chính phủ số là cung cấp dịch vụ số cho người dân, toàn bộ bộ máy công quyền chuyển sang hoạt động trên môi trường số. Sử dụng dữ liệu, công nghệ số để thiết kế lại vận hành của Chính phủ nhằm giúp cho việc ra quyết định và quản lý xã hội hiệu quả hơn, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia.

Định hướng mở để người dân, doanh nghiệp và tổ chức khác tham gia một cách phù hợp vào hoạt động của cơ quan nhà nước, tương tác với cơ quan nhà nước để cùng tăng cường minh bạch, nâng cao chất lượng dịch vụ, cùng giải quyết vấn đề và cùng tạo ra giá trị cho xã hội.

Trước đây, thông thường, phát triển chính phủ điện tử đặt ra mục tiêu phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội tốt hơn. Bản Chiến lược này còn đặt mục tiêu trang bị công cụ làm việc để cán bộ, công chức, viên chức có thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình, đó là Trợ lý ảo hay những Nền tảng làm việc, cộng tác trên môi trường số./.

3.  Công bố tài liệu hướng dẫn chuyển đổi số cho doanh nghiệp

Ngày 14/6/2021, lần đầu tiên tài liệu hướng dẫn chuyển đổi số cho doanh nghiệp được công bố nhằm đưa ra các kiến thức, lộ trình và các giải pháp công nghệ chuyển đổi số cho doanh nghiệp Việt Nam.

 Theo thông tin tổng hợp từ tài liệu hướng dẫn, báo cáo của Cisco & IDC năm 2020 về mức độ trưởng thành số của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại 14 quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho thấy, 31% doanh nghiệp đang ở giai đoạn đầu của chuyển đổi số, giảm 8% so với năm 2019; 53% các doanh nghiệp đang trong giai đoạn tiếp theo là “quan sát” tăng 3% so với năm 2019; 13% doanh nghiệp trong giai đoạn “thách thức”và 3% các doanh nghiệp đã “trưởng thành”, tăng lần lượt 4% và 1% so với năm 2019. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu vẫn đang tìm hiểu và mới ở bước đầu của chuyển đổi số.

Theo các chuyên gia của Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lộ trình chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam được khuyến nghị thông qua các giai đoạn phổ biến sau: giai đoạn chuẩn bị và 3 giai đoạn để thực hiện chuyển đổi dần từ “doing digital” sang “being digital”.

Các giai đoạn này là tương đối, tùy vào tình trạng thực tế, mục tiêu và tiềm lực của từng doanh nghiệp có thể thực hiện song song hoặc nối tiếp nhau, cụ thể: các giai đoạn bao gồm: xác định mục tiêu và chiến lược chuyển đổi số; tiếp theo là chuyển đổi số mô hình kinh doanh; chuyển đổi số mô hình quản trị (bao gồm quy trình sản xuất, quy trình công nghệ,…) và kết nối kinh doanh và quản trị, đổi mới sáng tạo để tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới.

Đặc biệt, đây là tài liệu đầu tiên tổng kết được bản đồ các giải pháp công nghệ, đánh giá một cách độc lập tổng quan về ưu, nhược điểm của các giải pháp, so sánh mức độ sẵn sàng của các giải pháp trong nước và quốc tế trên thị trường Việt Nam để các doanh nghiệp tham khảo, tìm kiếm được giải pháp phù hợp nhất với điều kiện của doanh nghiệp mình.

Nhận xét, chia sẻ của cộng đồng doanh nghiệp sau khi tiếp cận tài liệu hướng dẫn này, theo CEO của Công ty cổ phần EUBIZ, từ cuối năm 2019 EUBIZ Viet Nam JSC., một đơn vị sản xuất, chế biến, xuất khẩu hạt điều, đã mong muốn thực hiện chuyển đổi số (ERP, truy xuất nguồn gốc) nhằm tạo ra các lợi thế cạnh tranh trong thị trường, tối ưu hoá chi phí trong quá trình sản xuất; đồng thời, đáp ứng yêu cầu của quốc tế cần 1 hệ thống khép kín với các nhà nhập khẩu quốc tế.

Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) phối hợp thực hiện. Chương trình hướng tới mục tiêu đến năm 2025: 100% doanh nghiệp được nâng cao nhận thức về chuyển đổi số; tối thiểu 100.000 doanh nghiệp được hỗ trợ kỹ thuật về chuyển đổi số; tối thiểu 100 doanh nghiệp được hỗ trợ là mô hình chuyển đổi số điển hình thành công để lan tỏa và nhân rộng; thiết lập mạng lưới chuyên gia gồm tối thiểu 100 tổ chức, cá nhân tư vấn, cung cấp giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số cho doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển các nền tảng số.

Tài liệu Hướng dẫn này được xây dựng bởi các chuyên gia Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phối hợp với dự án USAID LinkSME triển khai thực hiện./.

4. Các quy định mới về quy tắc xuất xứ hàng hóa trong UKVFTA

Với lô hàng xuất khẩu của Việt Nam có trị giá dưới 6.000 euro, bất kỳ nhà xuất khẩu nào cũng được phép tự chứng nhận xuất xứ. Lô hàng có trị giá trên 6.000 euro, áp dụng cơ chế C/O do cơ quan, tổ chức được Bộ Công Thương ủy quyền cấp...

Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư 02/2021/TT-BCT quy định quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA). Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 26/7/2021.

Theo đó, hàng hoá có xuất xứ đang ở nước thành viên hoặc trong quá trình vận chuyển, lưu kho tạm thời, trong kho ngoại quan hoặc trong khu phi thuế quan kể từ ngày 01/01/2021 sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan theo UKVFTA khi đáp ứng quy định tại Thông tư này và có chứng từ chứng nhận xuất xứ phát hành sau được nộp cho cơ quan hải quan nước thành viên nhập khẩu.

Cơ chế chứng nhận xuất xứ trong UKVFTA được triển khai được quy định cụ thể. Đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam: với lô hàng có trị giá dưới 6.000 euro, bất kỳ nhà xuất khẩu nào cũng được phép tự chứng nhận xuất xứ. Với lô hàng có trị giá trên 6.000 euro, áp dụng cơ chế C/O do cơ quan, tổ chức được Bộ Công Thương ủy quyền cấp.

Đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam: với lô hàng có trị giá dưới 6.000 euro, bất kỳ nhà xuất khẩu nào cũng được phép tự chứng nhận xuất xứ. Với lô hàng có trị giá trên 6.000 euro, chỉ có nhà xuất khẩu đủ điều kiện theo quy định của UK mới được tự chứng nhận xuất xứ.

Đáng lưu ý, Thông tư quy định, việc kiểm tra, xác minh chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá được thực hiện xác suất hoặc khi cơ quan có thẩm của nước thành viên nhập khẩu có nghi ngờ hợp lý về tính xác thực của chứng từ, về xuất xứ của hàng hoá hoặc việc tuân thủ quy định khác của UKVFTA.

Cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên nhập khẩu gửi lại C/O, hoá đơn đã được nộp hoặc chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hay bản sao của các chứng từ này cho cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên xuất khẩu và đưa ra lý do đề nghị kiểm tra, xác minh phù hợp.

Các chứng từ và thông tin cho thấy sự sai lệch, không chính xác về thông tin thể hiện trên chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá được gửi kèm theo đề nghị kiểm tra, xác minh. Cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan hải quan của nước xuất khẩu thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu về việc nhận được đề nghị kiểm tra, xác minh chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Việc thông báo này có thể thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào, bao gồm cả hình thức điện tử. 

Trong trường hợp, cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên nhập khẩu quyết định tạm dừng ưu đãi thuế quan theo UKVFTA đối với lô hàng trong thời gian chờ kết quả kiểm tra, xác minh, việc thông quan hàng hoá cho nhà nhập khẩu được thực hiện và có xét đến các biện pháp phòng ngừa cần thiết.

Quyết định tạm dừng ưu đãi thuế quan theo UKVFTA phải được thu hồi ngay sau khi cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên nhập khẩu xác định hàng hoá có xuất xứ hoặc tuân thủ các quy định khác của Thông tư này… Kết quả kiểm tra, xác minh phải được thông báo sớm nhất trong thời gian có thể.

5. Lên kế hoạch thực thi Hiệp định UKVFTA

Trong năm 2021, Bộ Công Thương sẽ tập trung vào hoàn tất các công việc liên quan đến xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện Hiệp định UKVFTA…

 Bộ Công Thương sẽ xây dựng các kịch bản khai thác, phát triển thị trường theo nhóm hàng mà Việt Nam có lợi thế sang Anh. Bộ trưởng Bộ Công Thương vừa phê duyệt Kế hoạch thực thi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA) của Bộ Công Thương.

Theo đó, trong năm 2021 Bộ Công Thương sẽ tập trung vào hoàn tất các công việc liên quan đến xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện Hiệp định UKVFTA với các cam kết phải thực hiện ngay khi hiệp định có hiệu lực.

Đồng thời, tiến hành xây dựng Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc chỉ định cơ quan đầu mối để thực thi Hiệp định UKVFTA cũng như các chương của hiệp định; cơ quan đầu mối để tham gia Ủy ban thương mại, các ủy ban chuyên ngành; đầu mối về thông tin liên lạc giữa Việt Nam và Anh về các vấn đề của hiệp định... và tiến hành xây dựng và triển khai kế hoạch tuyên truyền, tập trung vào việc giới thiệu các thông tin và nội dung cam kết về Hiệp định UKVFTA.

Trong năm 2021, Bộ Công Thương sẽ xây dựng các chương trình phát triển thị trường cụ thể cho các mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng và lợi thế của Việt Nam vào thị trường Anh, đưa ra những hướng dẫn, hỗ trợ để giúp doanh nghiệp hiểu rõ cách thức tiếp cận và tận dụng những ưu đãi mà Hiệp định UKVFTA mang lại.

Bên cạnh đó, tiếp tục thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại trực tuyến, hiện đang được triển khai rất hiệu quả với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) để các doanh nghiệp Việt Nam có thêm cơ hội tham gia sâu hơn vào mạng lưới sản xuất, chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng có sự tham gia của các doanh nghiệp Vương quốc Anh, từ đó mở rộng sang các liên kết với phạm vi rộng hơn trong khu vực và toàn cầu.

Giai đoạn tiếp theo, Bộ sẽ tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến việc xây dựng, sửa đổi, ban hành văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện các cam kết có lộ trình trong Hiệp định UKVFTA. Trong đó, thúc đẩy hoạt động tuyên truyền chuyên sâu, chú trọng vào các khóa tập huấn, đào tạo kiến thức, xuất bản các ấn phẩm giới thiệu, phân tích về Hiệp định UKVFTA cho cán bộ trung ương, địa phương và các doanh nghiệp.

Đồng thời, tiếp tục xây dựng các kịch bản khai thác, phát triển thị trường theo nhóm hàng mà Việt Nam có lợi thế sang Anh và các vùng lãnh thổ và tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức xúc tiến thương mại tham gia các sự kiện xúc tiến thương mại quy mô lớn tại thị trường Anh, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại thông qua hình thức thương mại điện tử, duy trì App truy xuất nguồn gốc phục vụ các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu.

Theo kế hoạch này, hoạt động của Ủy ban Thương mại, ủy ban chuyên ngành, các nhóm chuyên môn theo từng chương của hiệp định, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục điều phối, chủ động nắm bắt và xử lý những vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai hiệp định cũng như hỗ trợ những ngành hàng, mặt hàng chịu tác động lớn, trực tiếp từ việc thực thi hiệp định.

6. Kiến nghị đưa nhóm hàng kiểm dịch làm thủ tục một cửa

VASEP đã đề nghị Chính phủ xem xét đưa những thực phẩm vừa phải kiểm tra an toàn thực phẩm, vừa kiểm dịch vào làm thủ tục hoàn chỉnh trên hệ thống một cửa quốc gia.

Theo công văn góp ý Dự thảo Nghị định kiểm tra Nhà nước về chất lượng, an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập khẩu, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng Dự thảo ngày 4.6 đã tiếp thu được hầu hết những cải cách tích cực, hiệu quả trong Nghị định số 15/2018 quy định chi tiết thi hành luật An toàn thực phẩm, đặc biệt là danh mục hàng hóa miễn kiểm tra nhà nước về an toàn thực phẩm (ATTP) nhập khẩu. Nhưng VASEP cũng đề nghị Chính phủ và các bộ ngành xem xét đưa vào Dự thảo Nghị định quy định những sản phẩm thực phẩm đang phải kiểm dịch và những thực phẩm vừa phải kiểm tra ATTP, vừa kiểm dịch cũng được làm thủ tục hoàn chỉnh trên hệ thống một cửa quốc gia. Hiện nay, những sản phẩm này phải làm thủ tục 2 cửa, vừa nộp trên hệ thống một cửa, vừa nộp hồ sơ giấy như hiện nay.

Giải thích cho kiến nghị trên, VASEP cho rằng thực phẩm dùng làm thức ăn cho người đều từ hai nguồn là: động vật và từ thực vật. Với nguồn từ động vật, thì Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang quy định (danh mục, phương thức kiểm tra, thủ tục…) tại bốn Thông tư. Tuy nhiên, cả bốn Thông tư này đều là “Kiểm dịch nhập khẩu” hết. Như vậy, hầu hết sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc động vật (trên cạn, dưới nước) là thực phẩm đều đang phải thực hiện kiểm dịch theo phương thức và thủ tục riêng quy định trong Thông tư của Bộ, trong khi đúng theo thông lệ quốc tế và cơ sở khoa học, thì hầu hết sản phẩm dùng làm thực phẩm chỉ kiểm tra ATTP nhập khẩu. Đánh giá và nhận định sơ bộ của Hiệp hội và các chuyên gia, thì với quy định hiện hành, có đến ít nhất 70% thực phẩm sẽ không thuộc phạm vi của Dự thảo Nghị định, và như vậy mục tiêu lớn của Dự thảo này sẽ bị giảm đi rất nhiều.

Việc loại trừ các sản phẩm phải kiểm dịch và các thực phẩm vừa kiểm tra ATTP vừa kiểm dịch ra khỏi Đề án Dự thảo Nghị định này sẽ dẫn đến bất cập lớn là cùng nhóm hàng thực phẩm, nhưng phải chia ra 2 loại thủ tục, 2 biểu mẫu khác nhau, làm ở 2 cửa khác nhau, 2 quy trình khác nhau; cũng như làm hiệu quả cải cách giảm đi nhiều, vì đa số thực phẩm vẫn phải làm theo quy trình cũ. Khi chưa thể cải cách được quy định và quy trình kiểm dịch, thì việc cải cách để đưa thủ tục kiểm dịch lên hệ thống một cửa quốc gia sẽ giúp công khai, minh bạch, giảm thời gian và chi phí cho xã hội.