BÁO CÁO CÁC HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC THÁNG 06/2020 (02-11-2020)

I.Các hoạt động phục vụ thuận lợi hóa thương mại tình hình trong nước

1. Áp dụng một số biện pháp tăng cường kiểm soát nguồn gốc và chất lượng của thực phẩm trên địa bàn

Theo Vụ Thị trường châu Á- châu Phi (Bộ Công Thương) cho biết, theo thông tin từ Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc), thời gian gần đây, Chính quyền Quảng Tây áp dụng một số biện pháp tăng cường kiểm soát nguồn gốc và chất lượng của thực phẩm trên địa bàn Việt Nam.

Theo đó, thực hiện nghiêm chế độ quản lý hàng hóa đưa vào tiêu thụ tại các chợ, siêu thị; tăng cường kiểm tra các loại giấy tờ như chứng nhận đạt chuẩn chất lượng, chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, chứng từ mua hàng đối với hàng nông sản dùng làm thực phẩm; cấm mua bán, tàng trữ các loại thực phẩm không phù hợp với tiêu chuẩn an toàn thực phẩm; các trường hợp kinh doanh thực phẩm nhập khẩu phải cung cấp chứng từ kiểm nghiệm kiểm dịch của cơ quan hải quan.

Mặt khác, tăng cường giám sát quản lý và loại trừ rủi ro dịch bệnh đối với các mặt hàng trọng điểm (tươi sống và động lạnh) như thủy sản và chế phẩm từ thủy sản, các loại thịt gia súc gia cầm như thịt lợn, thịt bò, thịt cừu. Nghiêm cấm giao dịch, mua bán các loại động vật hoang dã; tăng cường tổ chức lấy mẫu kiểm tra đối với các loại thực phẩm trọng điểm.

Theo Vụ Thị trường châu Á-châu Phi, Chính quyền thành phố Đông Hưng (có chung đường biên giới với Móng Cái, Quảng Ninh) gần đây cũng tăng cường tổng kiểm tra về nguồn gốc xuất xứ và chất lượng sản phẩm đối với thủy sản, các loại thịt tại các chợ nông sản, siêu thị, khách sạn trên địa bàn.

Trước tình hình đó, Bộ Công Thương một lần nữa khuyến nghị các doanh nghiệp, hộ sản xuất hàng nông sản, thủy sản xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc tăng cường giám sát chất lượng, chủ động phối hợp chặt chẽ với đối tác nhập khẩu tuân thủ nghiêm các quy định của Trung Quốc về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch, an toàn thực thẩm, truy xuất nguồn gốc… đối với hàng nhập khẩu.

Cùng với đó, tích cực theo dõi, nắm bắt thông tin về thị trường để chủ động việc đưa hàng lên các cửa khẩu biên giới nhằm góp phần giảm thiểu rủi ro và thời gian thông quan hàng hóa tại các cửa khẩu biên giới.

Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, hai năm vừa qua, kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc đều đạt trên ngưỡng 100 tỷ USD. Riêng 5 tháng đầu năm nay, trong bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát và diễn biễn phức tạp, hai nước đã kịp thời trao đổi nhiều biện pháp duy trì thông thương cũng như thực hiện các sáng kiến thúc đẩy giao lưu doanh nghiệp trên môi trường trực tuyến, đưa tổng kim ngạch thương mại song phương đạt 44,35 tỷ USD, tăng gần 2% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 15,975 tỷ USD, tăng 17,4% và kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường này đạt 28,375 tỷ USD, giảm hơn 5%.

Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng trong 5 tháng đầu năm nay nhưng kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản lại giảm: thủy sản đạt 373,19 triệu USD, giảm 2,3%; rau quả đạt 906,15 triệu USD, giảm 29,1%; hạt điều đạt 117,9 triệu USD, giảm 30,9%; cao su đạt 307,37 triệu USD, giảm 28,2% so với cùng kỳ năm 2019.

Trong bối cảnh đó, nhằm tăng cường xuất khẩu các mặt hàng nông sản, thực phẩm và hàng tiêu dùng sang thị trường Trung Quốc, Bộ Công Thương đã tổ chức nhiều chương trình giao thương trực tuyến với thị trường Trung Quốc: Hội nghị giao thương trực tuyến hàng nông sản, thực phẩm với tỉnh Quảng Tây; Hội nghị giao thương trực tuyến nông sản, thực phẩm với tỉnh Vân Nam; Hội nghị giao thương trực tuyến vật liệu xây dựng và đồ nội thất với Quảng Tây; Hội nghị giao thương trực tuyến nông sản, thực phẩm với tỉnh Sơn Đông; Hội nghị giao thương trực tuyến nông sản, thủy sản và thực phẩm với doanh nghiệp thành phố Trùng Khánh.

Tại các chương trình giao thương trực tuyến, nhiều doanh nghiệp Việt đã kết nối, hợp tác và ký kết hợp đồng với nhà nhập khẩu Trung Quốc. Đây là những tín hiệu tích cực giúp cho các doanh nghiệp có động lực sản xuất để đẩy mạnh xuất khẩu.

2. Bộ trưởng các nước tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP)

- Sáng 23-6, Hội nghị trực tuyến Bộ trưởng các nước tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP) giữa kỳ lần thứ mười diễn ra dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam . Bộ trưởng 15 nước tham gia đàm phán RCEP đã tham dự hội nghị này.

Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng đánh giá cao nỗ lực của các nhà đàm phán Hiệp định RCEP đạt được từ đầu năm đến nay, cho rằng các cuộc họp, thảo luận chuyên sâu theo hình thức trực tuyến của các bên tham gia đàm phán RCEP vẫn được tiến hành đúng tiến độ, bất chấp dịch Covid-19 diễn biến phức tạp.

Bộ trưởng khẳng định, với vai trò là nước Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã và đang tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các nước ASEAN trong việc duy trì vai trò dẫn dắt của ASEAN và hợp tác chặt chẽ với 6 nước đối tác để thúc đẩy sớm kết thúc hoàn toàn đàm phán Hiệp định RCEP, nhanh chóng hoàn tất việc rà soát để chuẩn bị ký kết Hiệp định vào tháng 11-2020 tại Hà Nội.

Với mục tiêu đạt được một hiệp định chất lượng cao và cân bằng về lợi ích, Việt Nam đã tích cực tham gia thảo luận và chủ động đề xuất những giải pháp linh hoạt trong nhiều lĩnh vực để xử lý những vấn đề vướng mắc giữa các bên trong khi vẫn đảm bảo lợi ích quốc gia. Việc ký kết được RCEP trong năm nay sẽ tạo ra nền tảng cơ bản để các quốc gia hợp tác chung tay ứng phó và đẩy lùi đại dịch Covid-19 cũng như khôi phục kinh tế trong khu vực và trên thế giới.

Tại hội nghị, bộ trưởng các nước tham gia đàm phán RCEP đã ghi nhận thách thức chưa từng có mà thương mại, đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu đang phải đối mặt do dịch Covid-19, cho rằng cần tăng cường hợp tác và phối hợp để thúc đẩy phục hồi kinh tế mạnh mẽ và linh hoạt, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng bền vững, cân bằng và toàn diện sau đại dịch.

Trong bối cảnh dịch bệnh cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên, các bộ trưởng một mặt nhận thức rõ các thách thức đối với khu vực, mặt khác tái khẳng định quyết tâm ký kết Hiệp định RCEP tại Hội nghị Thượng đỉnh RCEP lần thứ tư vào tháng 11-2020 theo chỉ đạo của lãnh đạo các nước tham gia đàm phán Hiệp định RCEP.

Các bộ trưởng nhất trí, việc ký kết RCEP trong năm 2020 sẽ phát đi tín hiệu về việc các nước tham gia đàm phán ủng hộ hệ thống thương mại đa phương, tăng cường hội nhập kinh tế giữa các nước trong khu vực, từ đó góp phần khôi phục các hoạt động kinh tế, thiết lập trạng thái bình thường mới trong toàn khu vực.

Ngoài ra, hội nghị cũng thảo luận về sự tham gia của Ấn Độ vào Hiệp định RCEP. Các bên cho rằng, Ấn Độ vẫn luôn là một thành viên quan trọng trong đàm phán Hiệp định RCEP kể từ khi khởi động vào năm 2012 và việc tham gia của Ấn Độ sẽ đóng góp cho sự tiến bộ và thịnh vượng chung của toàn khu vực, nhấn mạnh rằng, Hiệp định RCEP vẫn tiếp tục mở để Ấn Độ có thể tham gia.

Hội nghị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề còn tồn đọng, thúc đẩy kết thúc quá trình rà soát pháp lý lời văn chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định RCEP vào cuối năm nay, tạo ra khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới xét trên quy mô dân số.

3. Hỗ trợ và phát triển DOANH NGHIỆP đến năm 2020.

- Tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương sáng 30/6, Bộ KH&ĐT đã báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP và Chỉ thị số 26/CT-TTg về hỗ trợ và phát triển DOANH NGHIỆP đến năm 2020.

Báo cáo cho thấy, các giải pháp triển khai Nghị quyết 35 tiếp tục được triển khai đồng bộ trên các nhóm nhiệm vụ trong nghị quyết: Cải cách hành chính, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ DOANH NGHIỆP khởi nghiệp, DOANH NGHIỆP đổi mới sáng tạo; bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của DOANH NGHIỆP; giảm chi phí kinh doanh cho DOANH NGHIỆP; về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của DOANH NGHIỆP.

Sẻ chia trách nhiệm với DOANH NGHIỆP

Trong quý II, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp, chính sách quan trọng như Nghị quyết 42/NQ- CP ngày 9/4/2020 về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19, trong đó Nhà nước chia sẻ trách nhiệm với DOANH NGHIỆP trong việc bảo đảm cuộc sống cho người lao động.

Ngày 9/5, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì Hội nghị với DOANH NGHIỆP nhằm khích lệ động viên tinh thần doanh nhân nỗ lực vượt khó, kịp thời nắm bắt, lắng nghe các kiến nghị, đề xuất của cộng đồng DOANH NGHIỆP.

Ngày 29/5/2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết 84/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Trong quý II, Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết về miễn, giảm thuế sử dụng đất phi nông nghiệp đến năm 2020; về giảm thuế thu nhập DOANH NGHIỆP phải nộp của năm 2020; điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân; về mức thuế bảo vệ mội trường đối với nhiên liệu bay đến hết ngày 31/12/2020.

Chính phủ ban hành Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 6/4/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công; Nghị định 41/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 về gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất.

Đồng thời, trong quý II, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số văn bản quan trọng nhằm đẩy mạnh công tác chỉ đạo, điều hành, cải cách thủ tục hành chính, phát triển ứng dụng công nghệ thông tin, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho DOANH NGHIỆP bị tác động bởi dịch bệnh COVID-19, như Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 8/4/2020 về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử.

Tính đến tháng 5/2020, tổng số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 đang được các bộ, ngành, địa phương cung cấp cho người dân, DOANH NGHIỆP là hơn 56.000 dịch vụ, trong đó số dịch vụ công trực tuyến mức 4 là gần 17.000. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4 có phát sinh hồ sơ trực tuyến là 25,62%. Các bộ, ngành tiếp tục rà soát để cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh và cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DOANH NGHIỆP và người dân.

Về tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ DOANH NGHIỆP khởi nghiệp, DOANH NGHIỆP đổi mới sáng tạo, trong quý II các bộ, ngành và địa phương tiếp tục đẩy mạnh công tác triển khai Luật Hỗ trợ DOANH NGHIỆP nhỏ và vừa (DOANH NGHIỆPNVV). Tính đến thời điểm báo cáo, khuôn khổ pháp lý để triển khai Luật Hỗ trợ DOANH NGHIỆPNVV đã cơ bản hoàn thiện.

Ở cấp địa phương, trong quý II, có thêm 6 nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án, văn bản hướng dẫn hỗ trợ DOANH NGHIỆPNVV đã được địa phương ban hành, nâng tổng số lên 206; 10 địa phương đang gửi xin ý kiến góp ý đề án hỗ trợ DOANH NGHIỆPNVV. Một số tỉnh, thành phố đã rất chủ động và tích cực xây dựng và thực hiện các chính sách của địa phương về thúc đẩy khởi nghiệp và hỗ trợ DOANH NGHIỆPNVV trên địa bàn như Hà Nội, Thừa Thiên - Huế, Đồng Tháp, Hà Tĩnh, Bà Rịa - Vũng Tàu...

Thực hiện Chỉ thị 09/CT-TTg ngày 18/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ DOANH NGHIỆP khởi nghiệp sáng tạo, trong quý II, một số bộ, ngành, địa phương đã chủ động ban hành hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ được giao tại Chỉ thị.

Điển hình như Bộ GD&ĐT đã ban hành Kế hoạch triển khai đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” năm 2020; lựa chọn 3 cơ sở giáo dục đại học để triển khai thí điểm xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp trong các đại học…

Bộ KH&CN tiếp tục triển khai Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của DOANH NGHIỆP Việt Nam đến năm 2020”; triển khai Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" (Đề án 844).

Miễn giảm lãi suất cho dư nợ hơn 1,14 triệu tỷ đồng

Trong quý II, NHNN đã chỉ đạo áp dụng mức giảm phí dịch vụ nhiều nhất từ trước đến nay, góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng (TCTD) giảm chi phí, hạ lãi suất, đồng thời, gián tiếp nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và DOANH NGHIỆP; thực hiện 2 đợt điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm 1,5%/năm, giảm thêm 1% trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên (hiện ở mức 5,0%/năm)…

Đến ngày 25/5, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho hơn 223.000 khách hàng với dư nợ hơn 151.000 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho hơn 326.000 khách hàng với dư nợ trên 1,14 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ ngày 23/1 đến nay đạt trên 767.000 tỷ đồng cho hơn 196.000 khách hàng, lãi suất thấp hơn phổ biến từ 0,5-2,5% so với trước dịch.

Về xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, Bộ Công Thương, Bộ NN&PTNT đã triển khai các hoạt động kết nối giao thương trực tuyến giữa DOANH NGHIỆP Việt Nam với đối tác có nhu cầu nhập khẩu, nhằm khơi thông thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường cho nông sản nói riêng và hàng hóa nói chung, như Trung Quốc và Ấn Độ…

Bộ KH&CN tiếp tục rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục xác lập quyền sở hữu trí tuệ; nâng cao hiệu quả thực thi và đẩy mạnh việc tạo lập, khai thác, quản trị tài sản trí tuệ của DOANH NGHIỆP; tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ. Hiện nay, Bộ đang triển khai các thủ tục để xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.

Về giảm chi phí kinh doanh cho DOANH NGHIỆP, ngoài các giải pháp về thuế, tiền thuê đất… Bộ GTVT đã có văn bản chỉ đạo thực hiện các biện pháp hỗ trợ DOANH NGHIỆP gồm tạm thời không xử lý các đơn vị vận tải hành khách không đảm bảo số chuyến khai thác tuyến (tối thiểu 70% số chuyến theo biểu đồ chạy xe); rà soát điều chỉnh giảm mức thu phí, lệ phí để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các đối tượng chịu ảnh hưởng bởi dịch.

Đánh giá chung, theo báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, hầu hết các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 35 đã hoàn thành. Tuy nhiên, hiệu quả triển khai Nghị quyết vẫn còn hạn chế, tồn tại. Đồng thời, trong 6 tháng đầu năm, cộng đồng DOANH NGHIỆP bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19, tỉ lệ DOANH NGHIỆP đóng cửa, giải thể tăng cao, dẫn đến một số chỉ tiêu của Nghị quyết số 35 khả năng cao không thể đạt được, như chỉ tiêu có 1 triệu DOANH NGHIỆP đang hoạt động vào năm 2020.

Đẩy mạnh phát triển nền tảng thương mại điện tử

Trên cơ sở báo cáo của các bộ, ngành và địa phương và kiến nghị của cộng đồng DOANH NGHIỆP, Bộ KH&ĐT kiến nghị các bộ, ngành và địa phương tiếp tục khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ được giao về tháo gỡ khó khăn cho DOANH NGHIỆP.

Khẩn trương rà soát và điều chỉnh đơn giản, minh bạch các quy trình, thủ tục tiếp cận chính sách hỗ trợ DOANH NGHIỆP về thuế, tín dụng, lao động... thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, đẩy mạnh tiến độ thanh toán các khoản nợ công cho các DOANH NGHIỆP đúng quy định.

Nghiêm túc thực hiện thanh, kiểm tra DOANH NGHIỆP theo đúng tinh thần Nghị quyết số 35 ngày 16/5/2016 và Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020.

Một số giải pháp cụ thể, đó là đẩy mạnh hỗ trợ DOANH NGHIỆP đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt tại các thị trường có thể sớm hết dịch như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản... Đặc biệt khai thác các thị trường, khu vực thị trường hiện đang có các thỏa thuận thương mại tự do với Việt Nam.

Xem xét có chính sách bảo lãnh tín dụng cho khoản vay mới của các khách hàng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh và sử dụng nhiều lao động như DOANH NGHIỆP trong các ngành du lịch, dệt may, da giày, hàng không,... và các khách hàng là DOANH NGHIỆPNVV.

Khẩn trương hướng dẫn thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế thu nhập DOANH NGHIỆP năm 2020. Hướng dẫn thực hiện chính sách cấp bù lãi suất có thời hạn cho các DOANH NGHIỆPNVV theo quy định của Luật Hỗ trợ DOANH NGHIỆPNVV để hỗ trợ DOANH NGHIỆP phục hồi sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động.

Nghiên cứu đề xuất mở rộng đối tượng cho vay của Quỹ Phát triển DOANH NGHIỆPNVV và bổ sung kinh phí cho Quỹ để hỗ trợ DOANH NGHIỆPNVV ứng phó với dịch COVID-19.

Thực hiện chiến lược truyền thông về Việt Nam nhằm xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch. Khuyến khích xây dựng các nền tảng trực tuyến giúp các nhà mua lớn và DOANH NGHIỆP Việt Nam xúc tiến trao đổi, đàm phán đơn hàng. Các bộ, ngành đẩy mạnh xúc tiến giới thiệu các nhà mua lớn tham gia vào các nền tảng trực tuyến xúc tiến thương mại, kết nối DOANH NGHIỆP; hỗ trợ phát triển các nền tảng thương mại điện tử; e-logistics, các ứng dụng công nghệ giao dịch thanh toán điện tử, fintech, mobile money...

4. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 4 tỷ USD (tăng cao so với cùng kỳ năm 2013 với 1,7 tỷ USD)

 Theo số liệu được Tổng cục Thống kê công bố, qua 6 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 238,4 tỷ USD, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 121,2 tỷ USD, giảm 1,1%; nhập khẩu đạt 117,2 tỷ USD, giảm 3%. Trong 6 tháng đầu năm xuất siêu đạt mức 4 tỷ USD.

Tổng cục Thống kê cho biết, trước diễn biến phức tạp của đại Dịch Covid-19 trên thế giới, đặc biệt là tại các nước đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam đã ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất, nhập khẩu của nhiều mặt hàng trong 6 tháng vừa qua.

Tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 6/2020 của Việt Nam vẫn ghi nhận con số 41,5 tỷ USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 238,4 tỷ USD, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 121,2 tỷ USD, giảm 1,1%; nhập khẩu đạt 117,2 tỷ USD, giảm 3%. Như vậy, qua 6 tháng đầu năm 2020, Việt Nam vẫn xuất siêu đạt mức 4 tỷ USD.

Trong đó, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 6/2020 ước tính đạt 21 tỷ USD, tăng 9,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,4 tỷ USD, tăng 2.5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,6 tỷ USD, tăng 13,7%.

So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 6 giảm 2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 7,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 6,4%.

Một số mặt hàng xuất khẩu đã chịu tác động bởi dịch Covid-19 do nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường Mỹ và châu Âu sụt giảm, như: Điện thoại và linh kiện giảm 15,3% so với cùng kỳ năm trước; dệt may giảm 23,6%; giày dép giảm 11%; thủy sản giảm 5,2%. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn ghi nhận mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện trong tháng vẫn đạt giá trị tăng khá với 26,6% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 121,21 tỷ USD, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 41,38 tỷ USD, tăng 11,7%, chiếm 34,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 79,83 tỷ USD, giảm 6,7%, chiếm 65,9%.

Trong 6 tháng đầu năm có 22 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 86,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (4 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 52,7%), trong đó điện thoại và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, đạt 21,5 tỷ USD, chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 19,3 tỷ USD, tăng 24,2%; hàng dệt may đạt 12,8 tỷ USD, giảm 15,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 10,3 tỷ USD, tăng 25,2%; giày dép đạt 8,1 tỷ USD, giảm 6,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5 tỷ USD, tăng 2,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 3,8 tỷ USD, giảm 11,1%; thủy sản đạt 3,6 tỷ USD, giảm 8,3%.

Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó: Điện thoại và linh kiện chiếm 91,7%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 70,4%; giày dép chiếm 77,8%; hàng dệt may 58%.

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản 6 tháng đầu năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước: Rau quả đạt 1,8 tỷ USD, giảm 11,4%; cao su đạt 606 triệu USD, giảm 27,8% (lượng giảm 25,7%); hạt tiêu đạt 365 triệu USD, giảm 19,1% (lượng giảm 2,9%). Bên cạnh đó các mặt hàng gạo, cà phê và hạt điều tăng cả lượng và giá trị, gạo đạt 1,7 tỷ USD, tăng 19,3% (lượng tăng 5,6%); cà phê đạt 1,6 tỷ USD, tăng 2,5% (lượng tăng 3,7%); hạt điều đạt 1,5 tỷ USD, tăng 0,7% (lượng tăng 16,6%).

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 30,3 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc đạt 19,5 tỷ USD, tăng 17,4% (do mặt hàng điện thoại và linh kiện tăng 127,9%); thị trường EU đạt 16,1 tỷ USD, giảm 8,8%; thị trường ASEAN đạt 11,1 tỷ USD, giảm 14,2%; Nhật Bản đạt 9,4 tỷ USD, giảm 2,3%; Hàn Quốc đạt 9,3 tỷ USD, tăng 2,3%.

Ở chiều ngược lại, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 6/2020 ước tính đạt 20,5 tỷ USD, tăng 12,8% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,5 tỷ USD, tăng 8,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11 tỷ USD, tăng 16,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Sáu tăng 5,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 16,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 2,7%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 117,17 tỷ USD, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 51,55 tỷ USD, tăng 0,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 65,62 tỷ USD, giảm 5,4%.

Trong 6 tháng đầu năm 2020 có 22 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 81,2% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 27 tỷ USD (chiếm 23,1% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 16,9 tỷ USD, giảm 4,2%; điện thoại và linh kiện đạt 6 tỷ USD, tăng 3,7%; vải đạt 5,6 tỷ USD, giảm 15,3%; sắt thép đạt 4 tỷ USD, giảm 16,3%; chất dẻo đạt 3,9 tỷ USD, giảm 11,1%; sản phẩm chất dẻo đạt 3,2 tỷ USD, tăng 5,4%; kim loại thường đạt 2,9 tỷ USD, giảm 9%; sản phẩm hóa chất đạt 2,6 tỷ USD, tăng 4,6%; nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép đạt 2,5 tỷ USD, giảm 14,2%; ô tô đạt 2,4 tỷ USD, giảm 33%; hóa chất đạt 2,4 tỷ USD, giảm 8%; than đá đạt 2,2 tỷ USD, tăng 12,5%; dầu thô đạt 2,1 tỷ USD, giảm 0,1%.

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 6 tháng, Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 34,8 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 20,3 tỷ USD, giảm 10%; thị trường ASEAN đạt 14,2 tỷ USD, giảm 11,9%; Nhật Bản đạt 9,3 tỷ USD, tăng 5,3%; Hoa Kỳ đạt 7,4 tỷ USD, tăng 7,2%; Thị trường EU đạt 7,1 tỷ USD, tăng 8,4%.

Như vậy, dù tác động của dịch bệnh là vô cùng nặng nề đối với nền kinh tế của nhiều quốc gia, tại Việt Nam cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng 6/2020 ước tính xuất siêu 500 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục xuất siêu 4 tỷ USD (tăng cao so với cùng kỳ năm 2013 với 1,7 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 10,2 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 14,2 tỷ USD.