BÁO CÁO CÁC HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC THÁNG 04/2021 (17-05-2021)

I.Các hoạt động phục vụ thuận lợi hóa thương mại tình hình trong nước

1. WB: Sự phục hồi kinh tế trong nước đang đi đúng hướng

Cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 04/2021, Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định, việc nhanh chóng kiểm soát đợt bùng phát dịch Covid-19 mới đã giúp duy trì triển vọng phục hồi kinh tế tích cực của Việt Nam trong năm 2021.

Phân tích về những diễn biến của kinh tế Việt Nam gần đây, WB cho rằng, sự phục hồi kinh tế trong nước đang đi đúng hướng khi sản xuất công nghiệp và tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiếp tục tăng trưởng dương trong bối cảnh làn sóng Covid-19 thứ ba.

Tính bình quân những tháng đầu năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn ghi nhận mức tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất kim loại và sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học tiếp tục tăng lần lượt 8,6% và 3,2% trong tháng 2, nhờ nhu cầu cao trên thị trường thế giới.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng tốc trở lại trong tháng 04/2021 sau khi tăng trưởng chậm lại vào tháng 2. Mặc dù có đợt bùng phát dịch Covid-19 mới, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong tháng 2 vẫn tăng 0,3% so với tháng trước và 8,3% so với cùng kỳ năm trước nhờ nhu cầu tiêu dùng cao hơn trong dịp tết.

Theo WB, dù vẫn thấp hơn trước khi có dịch Covid-19, tỷ lệ tăng trưởng này cho thấy những biện pháp ứng phó có mục tiêu của Chính phủ với đợt bùng phát đã giảm thiểu việc tác động tiêu cực của những biện pháp phòng chống dịch nghiêm ngặt đối với các hoạt động kinh tế lan sang các tỉnh ngoài tâm chấn.

Xuất khẩu giảm nhẹ trong khi nhập khẩu tiếp tục tăng mạnh dẫn đến thâm hụt thương mại lần đầu tiên được ghi nhận trong 10 tháng. Trong tháng 3/2021, xuất khẩu hàng hóa giảm 4,2% trong khi nhập khẩu tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước, dẫn đến thâm hụt thương mại lần đầu tiên kể từ tháng 4/2020. Tuy nhiên, theo các chuyên gia WB, hiện còn quá sớm để kết luận liệu điều này có thể hiện một xu hướng mới trong cán cân thương mại hàng hóa hay không.

Trong khi xuất khẩu hàng dệt may, giày dép và điện thoại giảm thì máy tính, sản phẩm điện tử và quang học, máy móc, kim loại và sản phẩm kim loại, gỗ và đồ nội thất vẫn duy trì mức tăng trưởng mạnh mẽ.

Có thể sẽ cần thêm những can thiệp về chính sách tài khóa- tiền tệ

Phân tích về dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của WB cho thấy, FDI hồi phục mạnh mẽ vào tháng 3/2021 sau hai tháng chững lại. Sau khi giảm vào tháng 2/2021, Việt Nam đã thu hút được 3,4 tỷ USD vốn FDI vào tháng 3/2021, cao hơn 70,4% so với tháng trước và tăng gấp 3 lần giá trị vốn FDI ghi nhận vào tháng 3/2020. Sự gia tăng về vốn FDI này trong bối cảnh đại dịch CovidD-19 chủ yếu được thúc đẩy bởi hoạt động đăng ký cấp mới (tăng 265,7% so với cùng kỳ năm trước) và tăng vốn (tăng 273,0% so với cùng kỳ năm trước).

Sau nhiều tháng lạm phát liên tục giảm, giá cả trong nước đã tăng trở lại do kết thúc thời gian hỗ trợ giảm giá điện 10% và ảnh hưởng của nhu cầu trong nước tăng cao trong đợt tết. Trong tháng 3/2021, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 1,3% so với tháng trước và 0,7% so với cùng kỳ năm trước.

Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức 12,0% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 3/2021, tương đương tốc độ ghi nhận trong những tháng gần đây. Tỷ lệ tăng trưởng này chỉ thấp hơn 1 - 2 điểm phần trăm so với trước khủng hoảng Covid-19, phản ánh sự phục hồi của nền kinh tế thực và chính sách tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước.

Các chuyên gia của WB phân tích, chính sách tài khóa đang được điều chỉnh nhẹ do thu ngân sách được cải thiện trong những tháng đầu năm 2021, trong khi chi ngân sách giảm.

Trong những tháng đầu năm 2021, Chính phủ thu ngân sách 286,7 nghìn tỷ đồng, cao hơn 0,6% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả tích cực này - lần đầu tiên tổng thu ngân sách nhà nước tăng kể từ đầu cuộc khủng hoảng Covid-19 năm 2020 - phản ánh sự phục hồi kinh tế đang diễn ra. Về chi ngân sách, tổng chi giảm 6,0% so với cùng kỳ năm trước, xuống còn 207,3 nghìn tỷ đồng do đầu tư công thấp hơn, ước tính đạt 23,5 nghìn tỷ đồng và giảm 32,4% so với cùng kỳ năm trước.

Chính phủ hiện đang thảo luận đề xuất của Bộ Tài chính về việc gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất đợt 2. Tổng quy mô của gói hỗ trợ này ước tính khoảng 115 nghìn tỷ đồng (tương đương 5 tỷ USD). Nếu được thông qua và thực hiện tốt, chính sách này được kỳ vọng sẽ giúp các doanh nghiệp và hộ gia đình duy trì hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch vốn vẫn đang gặp nhiều khó khăn.

Theo WB, việc nhanh chóng kiểm soát đợt bùng phát dịch Covid-19 mới vào cuối tháng 2/2021 đã giúp duy trì triển vọng phục hồi kinh tế tích cực của Việt Nam trong năm 2021. Trong thời gian tới, cần đặc biệt chú ý đến việc triển khai tiêm vắc-xin phòng Covid-19 vì hoạt động này sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Cũng theo WB, Chính phủ có thể sẽ cần có thêm những can thiệp về chính sách tài khóa và tiền tệ để hỗ trợ phục hồi nhu cầu của khu vực tư nhân./.

2. Chương trình 'Mỗi xã một sản phẩm' làm trong thẩm định

Chương trình Mỗi xã một sản phẩm tiếp tục được xác định là một chương trình phát triển kinh tế nông thôn trọng tâm, cần được ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững. Quá trình triển khai, tuyệt đối không làm theo phong trào. Sáng ngày 23/3/2021, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã tổ chức Hội nghị toàn quốc “Tổng kết Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) giai đoạn 2018-2020”. Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng dự và chỉ đạo hội nghị.

Nhiều địa phương, bộ, ngành triển khai  hiệu quả

Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng ghi nhận và đánh giá cao những kết quả đạt được của Chương trình OCOP trong 3 năm qua.

Phó Thủ tướng  cho rằng: ”Mặc dù tiến độ triển khai trong cả nước còn chậm so với kế hoạch đề ra, đến hết 2018 chưa được 30% số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai Chương trình nhưng đến nay đã có 63/63 tỉnh thành triển khai; 59/63 tỉnh thành tổ chức đánh giá xếp hạng sản phẩm, cho thấy việc nhận thức và ý thức chỉ đạo triển khai Chương trình ngày càng tích cực hơn”.

Đến nay, đã có 2.439 tổ chức kinh tế tham gia sản xuất sản phẩm OCOP được xếp hạng, trong đó khu vực kinh tế tư nhân chiếm 59%, còn lại là kinh tế tập thể, hợp tác xã chiếm 41%. Kết quả này cho thấy mục tiêu là rất đúng hướng, đây là cơ sở, thành tố kinh tế quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.

Theo báo cáo của 59 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đánh giá, công nhận 4.469 sản phẩm, vượt 1,86 lần so với mục tiêu, cho thấy sức sáng tạo và tích cực của nhân dân trong phát triển, đa dạng hóa sản phẩm OCOP.

"Số sản phẩm đạt 3 - 4 sao cấp tỉnh chiếm 98,3%, cho thấy việc nhận diện và phát triển trục sản phẩm địa phương của Chương trình OCOP, của Bộ NN&PTNT là hết sức đúng đắn và thực tiễn" - Phó Thủ tướng khẳng định.

Định hướng chương trình giai đoạn 2021 – 2025: Mục tiêu đến năm 2025, phấn đấu có ít nhất 10.000 sản phẩm OCOP được công nhận đạt chuẩn từ 3 sao trở lên, trong đó có ít nhất 3% sản phẩm OCOP đạt 5 sao. Phấn đấu ít nhất có 40% chủ thể OCOP là hợp tác xã và 30% chủ thể là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có ít nhất 30% các chủ thể OCOP xây dựng được chuỗi giá trị khép kín, gắn với vùng nguyên liệu ổn định. Có ít nhất 50% số làng nghề nông thôn có sản phẩm OCOP....

Theo Phó Thủ tướng, sản phẩm OCOP được phát triển đa dạng theo 6 nhóm (thực phẩm; đồ uống; thảo dược; vải - may mặc; lưu niệm - nội thất - trang trí; du lịch) không chỉ là sinh kế của người dân mà còn là con đường phát triển kinh tế đa dạng, phát huy lợi thế, tính đặc sắc và văn hóa của mỗi một địa phương từ xã, đến huyện, đến tỉnh. Đặc biệt, trong thời gian qua, nhất là trong thời điểm dịch bệnh Covid 19, sản phẩm OCOP đã được cung ứng rất tốt cho thị trường, có sự tăng trưởng về doanh thu và giá bán là minh chứng về tiềm năng, hiệu quả của Chương trình OCOP.

Về nguồn lực triển khai, chương trình huy động 22.845 tỷ đồng (kế hoạch dự kiến 45.000 tỷ đồng), trong đó các tổ chức OCOP huy động nguồn lực và vay tín dụng chiếm trên 93%, tăng 6,6% so với kế hoạch đề ra là 86,6%; ngân sách các cấp (cả nguồn lồng ghép) chiếm 7%, giảm 6,4% so với kế hoạch đề ra là 13,4%.

Phó Thủ tướng cho hay, một thành công quan trọng nữa của Chương trình OCOP là công tác xúc tiến thương mại được các bộ, ngành, địa phương triển khai rất tích cực và hiệu quả. Ví dụ, Bộ Công thương đã nhanh chóng ban hành quyết định quy chuẩn trung tâm/điểm bán hàng OCOP, giúp cho cả nước có trên 142 trung tâm/ điểm bán hàng OCOP...

Bên cạnh những kết quả nổi bật, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng nêu rõ Chương trình OCOP còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Đó là  một số địa phương chưa chủ động vào cuộc . Một số địa phương lại có biểu hiện chạy theo thành tích, chưa đi vào thực chất, đặc biệt là chưa dựa vào lợi thế, thế mạnh của các sản phẩm đặc trưng. Công tác xúc tiến thương mại còn manh mún, thiếu đồng bộ, chưa tạo được điểm nhấn nổi trội và đặc sắc để tạo hình ảnh, thay đổi nhận thức của người tiêu dùng đối với sản phẩm OCOP, thương hiệu OCOP Việt Nam…

Nêu mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm của Chương trình OCOP giai đoạn 2021 – 2025, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đồng tình với những nhiệm vụ mà Bộ NN&PTNT đề ra. Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ NN&PTNT chủ trì phối hợp với các bộ, ngành khẩn trương hoàn thiện hồ sơ của Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt Chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025, muộn nhất vào tháng 6/2021.

Trong đó, phải tiếp tục xác định Chương trình OCOP là một chương trình phát triển kinh tế nông thôn trọng tâm, cần được ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững. “Phải xác định đây là chương trình mang tính dài hạn, không chỉ 5 năm, mà cần phải tính đến 10 năm hoặc lâu hơn nữa” – Phó Thủ tướng đề nghị.

Bên cạnh đó, tập trung đầu tư phát triển 6 nhóm sản phẩm đã được xác định, trong đó lưu ý những sản phẩm có lợi thế, đặc trưng của địa phương, gắn với yếu tố văn hóa ở khu vực miền núi, dân tộc để phục vụ phát triển kinh tế du lịch.

Phó Thủ tướng lưu ý, trong quá trình triển khai, tuyệt đối không được làm theo phong trào, thậm chí xảy ra tình trạng “xuê xoa” trong quá trình thẩm định, đánh giá, công nhận sản phẩm OCOP sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến thương hiệu của các sản phẩm OCOP khác.

Cùng với đó, chú trọng phát triển các loại hình tổ chức kinh tế tham gia Chương trình OCOP. Trong đó, cần ưu tiên hỗ trợ một cách thực chất hơn đặc biệt là các hợp tác xã, doanh nghiệp, phát huy vai trò đầu tàu trong các chuỗi giá trị sản phẩm OCOP. Đồng thời, có chính sách để ưu tiên vốn, đất đai, hỗ trợ thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ để phát triển sản xuất ở các tổ chức kinh tế OCOP…

Phó Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành chủ động trong việc xây dựng chính sách, cơ chế phù hợp, tạo điều kiện hỗ trợ các tổ chức kinh tế tham gia chương trình. Phó Thủ tướng đồng ý tiếp tục triển khai Chương trình tín dụng chính sách xã hội hỗ trợ phát triển sản xuất và mở rộng đối tượng cho vay để phát triển ngành nghề nông thôn, đặc biệt là phát triển Chương trình OCOP trên địa bàn đặc biệt khó khăn...

Phó Thủ tướng mong muốn, với những cơ chế, chính sách trong giai đoạn 2018-2020 và những cơ chế, chính sách hiệu quả hơn trong giai đoạn tới sẽ góp phần quan trọng giúp các địa phương, các tổ chức kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, nâng tầm sản phẩm OCOP để phát triển và hội nhập bền vững.

3. Thủ tục hành chính: Chi phí không chính thức là thách thức nghiêm trọng

Theo báo cáo APCI 2020 vừa được công bố sáng 17/4, mặc dù có những cải thiện đáng kể về điểm APCI trong năm 2020, song vẫn còn có nhiều cơ hội cải cách thủ tục hành chính để giúp doanh nghiệp có thể phát triển.

Ứng dụng công nghệ thông tin là ưu tiên hàng đầu

Theo Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ - Chủ tịch Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính (TTHC) của Thủ tướng Chính phủ, khác với những chỉ số đánh giá hoạt động cải cách khác, APCI được thiết kế với kỳ vọng đo lường gánh nặng chi phí thực tế về tuân thủ TTHC và tính sáng tạo, tính chủ động và trách nhiệm giải trình của các cơ quan trong bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương. Thông tin từ khảo sát APCI xuất phát từ những “trải nghiệm thực tế” của các doanh nghiệp (DN) trong quá trình thực hiện các TTHC để phục vụ hoạt động đầu tư kinh doanh.

Mặc dù có những cải thiện đáng kể về điểm APCI (bao gồm thời gian và chi phí tuân thủ) trong năm 2020, báo cáo 2020 cho thấy còn có nhiều cơ hội cải cách TTHC để giúp cho DN có thể phát triển trong bối cảnh Việt Nam vừa phải thúc đẩy phát triển kinh tế, thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng chuyển dịch và đối mặt các vấn đề phát sinh từ đại dịch Covid-19 để nhận thấy các giá trị từ cải cách TTHC.

Trong đó, Bộ trưởng nhấn mạnh việc thực hiện và giải quyết TTHC trên môi trường điện tử để cải thiện và tiết kiệm chi phí thực hiện TTHC cho DN không còn là một ưu tiên cần cân nhắc, mà đã là một nhiệm vụ cấp bách và ưu tiên hàng đầu của Chính phủ và các bộ, ngành.

Kết quả nghiên cứu APCI qua 3 năm 2018, 2019 và 2020 cho thấy, những nhóm TTHC nào được các cơ quan nhà nước trong bộ máy hành chính duy trì được nhịp cải thiện liên tục bất kỳ yếu tố nào (thời gian, chi phí tuân thủ hay sự thuận tiện thông qua phương thức điện tử) đều được phản ánh ngay vào kết quả điểm APCI hàng năm.

APCI 3 năm qua cũng cho thấy những nhóm TTHC có điểm APCI cao và có những tiến bộ đáng kể trong năm 2019 là nhờ vào việc áp dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ cho việc thực hiện TTHC của DN cũng như giải quyết TTHC của cơ quan nhà nước trên môi trường điện tử. Những yếu tố này sẽ tạo thuận lợi cho DN tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi số quốc gia, đồng thời hạn chế được tiêu cực, nhũng nhiễu và rủi ro về tình huống bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh thường phát sinh ở phương thức truyền thống.

Chi phí không chính thức cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội

Trọng tâm cải cách thứ hai được khuyến nghị là tiếp tục đẩy mạnh việc cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC, bao gồm chi phí chính thức và không chính thức để thúc đẩy một môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch và bộ máy công vụ liêm chính, tin cậy, tạo cơ hội cho DN tham gia liên kết chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Bên cạnh các thông tin về chi phí tuân thủ TTHC, APCI 2019 và 2020 đã cung cấp thêm thông tin về chi phí không chính thức khi DN phải thực hiện TTHC.

Nghiên cứu cho thấy, chi phí không chính thức có ở tất cả các nhóm TTHC, các công đoạn khi thực hiện TTHC và ở nhiều địa phương, đặc biệt là ở các nhóm TTHC liên quan đến hoạt động kinh doanh như các nhóm TTHC về kiểm tra chuyên ngành, giao dịch thương mại qua biên giới, đất đai, xây dựng, giấy phép, chứng chỉ hành nghề, điều kiện kinh doanh.

Chi phí không chính thức không chỉ làm gia tăng chi phí tuân thủ mà đang làm cho môi trường kinh doanh trở nên thiếu lành mạnh, kém cạnh tranh và gây e ngại cho các DN nước ngoài muốn kinh doanh và cạnh tranh công bằng tại Việt Nam, hợp tác với DN Việt Nam. Chi phí không chính thức trong một số tình huống hoặc TTHC dù không lớn nhưng cũng tạo ra trở ngại khác, như thời gian, tính công bằng và rủi ro pháp lý trong kinh doanh.

“Nếu để khoản chi phí này tồn tại và lan trên diện rộng thì sẽ “cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, đang là vấn đề thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước” như Nghị quyết số 126/NQ-CP của Chính phủ đã nhận định” - báo cáo APCI 2020 đánh giá.

Báo cáo APCI cũng phản ánh một nền hành chính phục vụ sẽ đem lại hiệu quả về cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC, tạo nên môi trường kinh doanh công bằng và có tính cạnh tranh. So sánh điểm APCI 2019 và 2020 cho thấy không có sự tương quan giữa kết quả kinh tế và xã hội và chi phí tuân thủ TTHC thấp. Phân tích các chỉ số thành phần của những địa phương đứng đầu về số điểm APCI 2019 và 2020 cao cho thấy, thành công của các địa phương là nhờ các chỉ số về thời gian thực hiện TTHC, chi phí trực tiếp và tổng chi phí thấp.

Thực tế này đã phản ánh phần nào về thái độ, trách nhiệm của các cơ quan, cán bộ trong bộ máy hành chính nhà nước tại các địa phương này trong việc giải quyết TTHC cho DN. Như vậy, công tác cắt giảm chi phí tuân thủ TTHC phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thay đổi quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh, TTHC như quy định đổi từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”; phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin để áp dụng việc thực hiện TTHC của DN và xử lý TTHC của cơ quan nhà nước trên môi trường điện tử; sự chuyển đổi từ thái độ và trách nhiệm công vụ sang thái độ và trách nhiệm phục vụ người dân của cơ quan và cán bộ nhà nước./.

4. Thời Covid-19, doanh nghiệp cần chính sách hữu ích

Chính phủ và các địa phương đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn do Covid-19 gây ra, song các doanh nghiệp đề xuất cần hỗ trợ cụ thể, trực tiếp, hữu ích hơn.

Năm 2020 chứng kiến cộng đồng doanh nghiệp phải vật lộn để chống chọi với các khó khăn về thị trường, chuỗi cung ứng và nhiều vấn đề khác trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tại cuộc đối thoại nhằm tháo gỡ khó khăn về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh Covid-19, diễn ra cuối tuần qua, Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, đã có những doanh nhân phải bán nhà, bán tài sản để duy trì hoạt động của doanh nghiệp, giữ chân người lao động.

Bổ sung ý kiến này, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn thuế C&A chia sẻ, năm 2020, doanh nghiệp vẫn trụ được vì còn có “thóc giống” để ăn, nhưng năm 2021 và 2022, nếu dịch bệnh còn tiếp diễn thì doanh nghiệp thực sự kiệt quệ.

Khảo sát của VCCI cho kết quả, có tới 87,2% doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực bởi Covid-19. Các lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất là may mặc (97% doanh nghiệp), thông tin, truyền thông (96% doanh nghiệp). Kết quả khảo sát 1.564 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam cũng ghi nhận 87,9% chịu tác động tiêu cực từ dịch bệnh.

Covid-19 khiến các doanh nghiệp gặp trở ngại nhất ở các vấn đề như tiếp cận khách hàng, chuỗi cung ứng đứt gãy, mất cân đối dòng tiền, khó khăn quản trị lao động. Đã có 35% doanh nghiệp tư nhân và 22% doanh nghiệp FDI từng phải cho lao động nghỉ việc do tình hình kinh doanh suy giảm. Khoảng 65% doanh nghiệp tư nhân có doanh thu năm 2020 bị giảm so với năm 2019, con số này ở doanh nghiệp FDI là 62%.

Theo Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, mặc dù Nhà nước đã có nhiều biện pháp hỗ trợ tài chính và tín dụng, song sự hỗ trợ đó vẫn chưa đáp ứng được mong muốn của doanh nghiệp.

“Doanh nghiệp vẫn chịu mức lãi suất cao, thời gian cơ cấu trả nợ ngắn, các gói vay mới có nhiều điều kiện khó tiếp cận. Hoạt động xuất nhập cảnh và thương mại vẫn rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp”, Chính sách cần cụ thể, dễ tiếp cận

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Phú Thọ cho rằng, doanh nghiệp còn ngồi bàn được về chính sách hôm nay là những doanh nghiệp còn có sức. Rất nhiều doanh nghiệp đã ra đi, nhiều doanh nghiệp đã cạn sức, nhưng chính sách vẫn chưa đi vào cuộc sống.

Để chính sách đến được với doanh nghiệp, Trưởng ban Pháp chế VCCI kiến nghị, Chính phủ cần tiếp tục thực hiện miễn, giảm, gia hạn thời gian nộp thuế; giảm, gia hạn khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, phí công đoàn. Cùng với đó, mong muốn các bộ, ngành, địa phương có hướng dẫn cụ thể, chi tiết, đầy đủ về các thủ tục, quy trình thực hiện theo hướng đơn giản, dễ thực hiện đối với các doanh nghiệp.

“Doanh nghiệp cần các hỗ trợ cụ thể, trực tiếp, hữu ích, hơn là những chính sách bóng bẩy, khó thực hiện”.

Phía doanh nghiệp cũng thấy rằng, dư địa cho các giải pháp về thuế, phí, hỗ trợ tiếp cận tín dụng là không nhiều, vì ngân sách có hạn, nhưng có những sự hỗ trợ chỉ cần bằng hành động như tháo gỡ các nút thắt về thủ tục hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh.

Để hỗ trợ doanh nghiệp thiết thực, hiệu quả, đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam miễn 2% kinh phí công đoàn cho doanh nghiệp trong thời gian dịch bệnh; các ngân hàng tiếp tục xem xét, cơ cấu lại thời gian trả nợ, giảm lãi suất cho vay 1,5-2% cho tất cả các gói cho vay và điều kiện, thủ tục cho vay cần đơn giản hơn, tài sản thế chấp linh hoạt hơn. Đồng thời giảm thuế giá trị gia tăng trong 3-5 năm để doanh nghiệp tăng vốn tích lũy, tái đầu tư sau dịch; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp về mức 13-15%; giảm tiền thuê đất trong 2 năm…

Phó trưởng ban Quan hệ lao động (Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) phát biểu, chính sách sắp tới cần hỗ trợ người lao động khó khăn phải thuê nhà, có con nhỏ; hỗ trợ đào tạo kỹ năng cho người lao động từ nguồn quỹ bảo hiểm thất nghiệp… Đặc biệt, thời điểm này đã đủ điều kiện thực tiễn để kiến nghị Quốc hội miễn, giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp (hiện người lao động đóng 1%, doanh nghiệp 1%), bởi quỹ hiện đang kết dư hơn 80.000 tỷ đồng.