BÁO CÁO CÁC HOẠT ĐỘNG PHỤC VỤ THUẬN LỢI HÓA THƯƠNG MẠI TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC THÁNG 03/2022 (09-05-2022)

. Các hoạt động phục vụ thuận lợi hóa thương mại tình hình trong nước

1. Việt Nam - Hoa Kỳ: Tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng thương mại 

Ngày 8/3, tại Hà Nội, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Hà Nội (AmCham) và Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Washington (US Chamber) đồng tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Kinh doanh Việt Nam - Hoa Kỳ lần thứ 5 với chủ đề "Định hình lại quan hệ kinh tế song phương".

"Lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ"

Gần ba thập kỷ qua, Hoa Kỳ liên tục là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam. Kim ngạch thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã tăng từ mốc 450 triệu USD năm 1995 khi hai nước bình thường hóa quan hệ, lên mốc hơn 110 tỷ USD trong năm 2021, bất chấp đại dịch Covid-19 kéo dài và diễn biến phức tạp khiến chuỗi cung ứng bị đứt gãy.

Hoa Kỳ đã trở thành đối tác thương mại thứ hai và là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, trong khi Việt Nam tiếp tục vươn lên, trở thành đối tác thương mại lớn thứ 9 của Hoa Kỳ. Năm 2021, cả Việt Nam và Hoa Kỳ đều đạt được những kết quả phục hồi, tăng trưởng kinh tế tích cực và đều cùng nhau hướng tới những mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao trong những năm tới.

Tham dự và phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã điểm lại những dấu mốc quan trọng trong quan hệ về ngoại giao và thương mại giữa hai nước. Thủ tướng đã bày tỏ sự vui mừng về kết quả khảo sát đầu tư kinh doanh năm 2021 của Amcham, theo đó, có gần 80% thành viên AmCham Việt Nam tham gia khảo sát đánh giá rất tích cực hoặc tích cực về triển vọng trung và dài hạn tại thị trường Việt Nam.

Đặc biệt, trước ảnh hưởng của đại dịch, Thủ tướng cho biết, Việt Nam đã nhận được gần 220 triệu liều vắc xin, khoảng một nửa trong số đó đến từ các nguồn tài trợ, trong đó có khoảng 29 triệu liều từ Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Hoa Kỳ cũng tích cực chia sẻ với Việt Nam về phương tiện, trang thiết bị phòng, chống dịch.

Nói về những tiềm năng, thế mạnh của kinh tế Việt Nam cũng như phương hướng điều hành của Chính phủ tới cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ, Thủ tướng cho biết, Việt Nam xác định cách tiếp cận toàn dân trong phòng chống dịch, đặt tính mạng, sức khỏe người dân lên trên hết, trước hết. Sau khi đạt độ bao phủ vắc xin với tỷ lệ tiêm chủng thuộc loại cao nhất thế giới, Việt Nam đã chuyển hướng thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, tự tin mở cửa trở lại trên cơ sở thực tiễn, khoa học, đang phục hồi nhanh và hướng tới phát triển kinh tế-xã hội bền vững.

Vì thế, theo Thủ tướng, thời gian tới, Việt Nam sẽ tập trung thực hiện có hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội (quy mô khoảng 350.000 tỷ đồng, tương đương trên 4% GDP), tập trung vào mở cửa nền kinh tế gắn với đầu tư nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch bệnh; bảo đảm an sinh xã hội, phục hồi thị trường lao động, việc làm; hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp thông qua hoãn, miễn, giảm thuế, phí, điện và nước…; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng với các dự án quan trọng, cấp thiết, có tính lan toả lớn; bố trí một phần nguồn lực cho các vấn đề có thể phát sinh.

Chủ động kết nối và hợp tác

Để ứng phó với các cú sốc kinh tế trong tương lai, Chủ tịch VCCI nhấn mạnh, doanh nghiệp hai nước càng cần có sự tin tưởng lẫn nhau, chủ động, sáng tạo và đoàn kết hơn nữa để vượt qua khó khăn, nắm bắt thời cơ của cách mạng công nghệ số để phát triển bền vững, đặc biệt trong những dư địa hai bên còn rất nhiều tiềm năng hợp tác, đầu tư như phát triển kinh tế số, năng lượng sạch và bền vững, chế tạo – chế biến, hàng không, y tế, dược phẩm... Bên cạnh đó, thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam thực hiện chuyển đổi số cũng được VCCI xác định là một trong 3 đột phá chiến lược trong giai đoạn tới và là lĩnh vực có tiềm năng lớn trong hợp tác kinh doanh Việt Nam – Hoa Kỳ.

Nhận xét về tiềm năng quan hệ giữa hai nước, ông Dean Garfield, Phó Chủ tịch Toàn cầu về Chính sách công của Netflix tin tưởng, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia sáng tạo nhất ở khu vực châu Á và sẽ thành công trong mục tiêu tăng tỷ trọng của công nghiệp sáng tạo. Vì vậy, ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành AmCham cho biết, xu hướng tăng trưởng thương mại và đầu tư giữa hai nước sẽ tiếp tục được duy trì. Điều này cần đến những giải pháp để tháo gỡ khó khăn, cải thiện môi trường kinh doanh nhằm tăng cường sức mạnh cho khu vực tư nhân, đảm bảo phát triển kinh tế và xã hội, thu hút thêm đầu tư và thúc đẩy thịnh vượng tại Việt Nam.

  1. Trung Quốc thêm trái cây cấp đông vào nhóm phải đăng ký xuất khẩu bởi cơ quan chức năng

Theo Văn phòng SPS Việt Nam (Bộ NN&PTNT), Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc vừa cho biết việc Tổng cục Hải quan Trung Quốc bổ sung sản phẩm trái cây cấp đông, bảo quản lạnh vào danh mục sản phẩm phải đăng ký bởi cơ quan chức năng Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của Lệnh 248 về "Quy định Quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nước ngoài nhập khẩu".

Với Lệnh số 248, toàn bộ doanh nghiệp nước ngoài sản xuất thực phẩm xuất khẩu đi Trung Quốc đều phải đăng ký với Tổng cục Hải quan Trung Quốc thay vì chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp sản xuất mặt hàng nằm trong diện "Danh mục cần đăng ký" như trước đây. Hải quan Trung Quốc phân loại doanh nghiệp theo mức độ rủi ro.

Cụ thể, nhóm 1: doanh nghiệp sản xuất 18 loại thực phẩm xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc phải đăng ký với Tổng cục hải quan Trung Quốc thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.

18 loại thực phẩm này gồm: Thịt và các sản phẩm từ thịt; sản phẩm thủy sản; sản phẩm từ sữa, yến sào và sản phẩm từ tổ yến; ruột động vật (dùng làm vỏ xúc xích); sản phẩm từ ong; trứng và các sản phẩm trứng; dầu thực phẩm và nguyên liệu; bánh có nhân các loại; ngũ cốc dùng làm thực phẩm; sản phẩm bột ngũ cốc và mạch nha; các loại rau tươi, rau tách nước, đậu khô; gia vị nguồn gốc tự nhiên; quả hạch và các loại hạt; trái cây sấy khô; hạt cà phê và ca cao chưa rang; thực phẩm ăn kiêng đặc biệt; thực phẩm chức năng).

Nhóm 2: bao gồm các doanh nghiệp sản xuất các loại thực phẩm xuất khẩu đi thị trường Trung Quốc không nằm trong 18 loại thực phẩm của nhóm 1 thì có thể tự nộp hồ sơ hoặc ủy quyền cho doanh nghiệp/đại lý nhập khẩu của Trung Quốc thực hiện đăng ký với Hải quan Trung Quốc thông qua "Ứng dụng quản lý đăng ký doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nhập khẩu nước ngoài" trên hệ thống một cửa thương mại quốc tế https://www.singlewindow.cn từ ngày 1/11/2021.

  1. Hỗ trợ doanh nghiệp sớm đăng ký mã số xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc

Lệnh 248 của Cơ quan Hải quan Trung Quốc có hiệu lực từ 1/1/2022 ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất nông sản, thực phẩm của Việt Nam đã và đang có nhu cầu xuất khẩu đi thị trường Trung Quốc. Nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp sớm đăng ký mã số xuất khẩu sang thị trường này đang được Bộ Công Thương và các Bộ, ngành đẩy mạnh triển khai thực hiện.

Các bước cơ bản để doanh nghiệp đăng ký mã số xuất khẩu

Lệnh 248 “Quy định về đăng ký và quản lý doanh nghiệp sản xuất thực phẩm nhập khẩu nước ngoài”. Theo đó, toàn bộ doanh nghiệp nước ngoài sản xuất thực phẩm xuất khẩu đi Trung Quốc đều phải đăng ký với Hải quan Trung Quốc.

Hạt cà phê và ca cao chưa rang thuộc nhóm 1, doanh nghiệp thuộc nhóm này phải đăng ký mã số xuất khẩu với cơ quan Hải quan Trung Quốc thông qua các cơ quan quản lý nhà nước.

Trong đó, nhóm 1 với 19 nhóm mặt hàng gồm: thịt và các sản phẩm thịt; Sản phẩm thủy sản; Sản phẩm từ sữa; Yến sào và sản phẩm từ tổ yến; Ruột động vật (dùng làm vỏ xúc xích); Sản phẩm từ ong; Trứng và các sản phẩm trứng; Dầu thực phẩm và nguyên liệu; Bánh có nhân các loại; Ngũ cốc dùng làm thực phẩm; Sản phẩm bột ngũ cốc và mạch nha; Các loại rau tươi, rau tách nước (rau khô, rau sấy) và đậu khô; Gia vị nguồn gốc tự nhiên; Quả hạch và các loại hạt; Trái cây sấy khô; Hạt cà phê và ca cao chưa rang; Trái cây cấp đông, bảo quản lạnh; Thực phẩm ăn kiêng đặc biệt; Thực phẩm chức năng. Doanh nghiệp thuộc nhóm này phải đăng ký mã số thông qua các cơ quan quản lý nhà nước.

Nhóm 2 gồm thực phẩm ngoài 18 mặt hàng thuộc nhóm 1 đăng ký trực tiếp với cơ quan Hải quan Trung Quốc.

Trong số 19 mặt hàng thuộc diện doanh nghiệp phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước, có 3 mặt hàng thuộc lĩnh vực Bộ Công Thương phụ trách gồm: Dầu thực phẩm và nguyên liệu; Sản phẩm bột ngũ cốc và mạch nha; Bánh có nhân các loại. Đối với 2 nhóm sản phẩm gồm: Thực phẩm ăn kiêng đặc biệt; Thực phẩm chức năng thuộc lĩnh vực Bộ Y tế phụ trách; nhóm sản phẩm còn lại thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phụ trách.

Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á – châu Phi (Bộ Công Thương) - đánh giá, Lệnh 248 điều này không quá mới đối với Bộ Công Thương và một số doanh nghiệp. Tuy nhiên, với không ít doanh nghiệp nó lại là trở ngại. Do đó, trong thời gian qua, các Bộ ngành đã nỗ lực để hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà sản xuất hiểu được Lệnh 248. Để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu, trong thời gian qua, Bộ Công Thương cũng đã xây dựng Bộ tài liệu hướng dẫn chi tiết doanh nghiệp đăng ký xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc theo với Lệnh 248.

Cụ thể, đối với doanh nghiệp đăng ký với cơ quan Hải quan Trung Quốc thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thời điểm trước 31/10/2022, doanh nghiệp đăng ký chỉ cần gửi cho cơ quan chức năng đăng ký kinh doanh và chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, chúng tôi sẽ đưa vào danh sách và gửi cho Hải quan Trung Quốc.

Từ 1/11/2021, doanh nghiệp đăng ký với cơ quan Hải quan Trung Quốc thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ phải thông qua 6 bước. Cụ thể, doanh nghiệp xác định cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam; doanh nghiệp đăng ký thông tin với cơ quan có thẩm quyền Việt Nam; cơ quan có thẩm quyền Việt Nam phải đến kiểm tra doanh nghiệp, rà soát, đối chiếu thông tin của doanh nghiệp, hiệu lực đăng ký; cơ quan có thẩm quyền phía Việt Nam gửi danh sách doanh nghiệp và tài liệu liên quan tới Hải quan Trung Quốc thông qua đường ngoại giao; Hải quan Trung Quốc tiến hành rà soát đối chiếu, tiếp nhận đăng ký sau đó cung cấp mã số tới cơ quan thẩm quyền hoặc doanh nghiệp Việt Nam; doanh nghiệp dựa vào mã số do Hải quan Trung Quốc cấp để in ấn bao bì, nhãn mác của sản phẩm.

Đối với doanh nghiệp tự đăng ký trực tuyến (online) với cơ quan Hải Quan Trung Quốc sẽ thực hiện theo 7 bước tại đường link www.singlewindow.cn sau đó hoàn thiện các yêu cầu. Việc tự đăng ký online với cơ quan Hải quan Trung Quốc là việc khó đối với các doanh nghiệp Việt Nam bởi trên trang web này mới có tiếng Anh và tiếng Trung. Hiện thông tin trên trang web này bằng tiếng Trung được hướng dẫn rất cụ thể cho doanh nghiệp, tuy nhiên, thông tin hướng dẫn bằng tiếng Anh thì còn rất ít. Do đó, nếu doanh nghiệp xác định Trung Quốc là thị trường trọng điểm thì doanh nghiệp cần tìm kiếm những nhân viên biết tiếng Trung. Cũng theo ông Sơn, doanh nghiệp đừng nghĩ khai xong để đấy, họ có thể kiểm tra đột xuất doanh nghiệp bất cứ khi nào. Nếu không đúng như thông tin đã khai và cam kết với Hải quan Trung Quốc thì sẽ rất nguy hiểm cho doanh nghiệp.

Nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp

Trung Quốc là thị trường lớn thứ 2 của Việt Nam xuất khẩu ra thế giới, đây cũng là thị trường quan trọng bậc nhất của Việt Nam đối với riêng mặt hàng nông sản và thực phẩm. “Nông sản và thực phẩm luôn là phần mà chúng ta chiếm được lợi ích và lợi nhuận đối với doanh nghiệp và người nông dân là lớn nhất. Đây cũng là nhóm mặt hàng được Bộ Công Thương đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi nhất để xuất khẩu được nhiều nhất bởi đây là mặt hàng thường xuyên gặp phải những rào cản tại thị trường nhập khẩu”.Việt Nam xuất khẩu khoảng 7 tỷ USD nông sản sang thị trường Trung Quốc, trong tổng số khoảng gần 50 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới. Bất kỳ sự thay đổi nào của thị trường Trung Quốc cũng khiến cho người nông dân, doanh nghiệp đều bị ảnh hưởng.

Do đó, ngay khi nhận được thông tin về Lệnh 248 của Hải quan Trung Quốc, Bộ Công Thương cũng đã thông qua nhiều kênh đề nghị phía Trung Quốc lùi thời hạn hoặc có thời gian quá độ để cho các doanh nghiệp chuẩn bị do thời hạn thực thi quá gấp, tuy nhiên, phía Trung Quốc không có động thái. Trong thời gian qua, các Bộ Thương cũng đã phối hợp với các Bộ, ngành địa phương đẩy mạnh tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức của người nông dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận các thị trường trong đó có thị trường Trung Quốc. Tuy nhiên, từ nhận thức đến hành động có một khoảng cách nhất định.

Tính đến ngày 7/3/2022, cơ quan Hải quan Trung Quốc đã cấp 1.853 mã số cho doanh nghiệp trong nước. Hiện vẫn còn những tồn tại một số lỗi kỹ thuật khi sử dụng hệ thống đăng ký doanh nghiệp nước ngoài trực tuyến của Tổng cục Hải quan Trung Quốc do hệ thống mới vận hành như: tốc độ truy cập chậm, ngôn ngữ Tiếng Trung, lỗi giao diện khó theo dõi… Việc phê duyệt mã sản phẩm của Tổng cục Hải quan Trung Quốc còn chậm và chưa có quy định về thời gian phê duyệt cấp mã số đăng ký doanh nghiệp.

Để tháo gỡ các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện Lệnh 248, đặc biệt việc chậm cấp mã số đăng ký đối với nhóm mặt hàng do Bộ Công Thương quản lý đăng ký, Bộ Công Thương sẽ phối hợp cùng với các Bộ, ngành liên quan rà soát lại số doanh nghiệp và số sản phẩm đã đề xuất với Hải quan Trung Quốc nhưng chưa được phê duyệt, cấp mã số.

Đôn đốc Tổng cục Hải quan Trung Quốc sớm phản hồi và cấp mã số đăng ký đối với danh sách doanh nghiệp sản xuất thực phẩm của Việt Nam, đảm bảo cho hoạt động thương mại song phương được duy trì ổn định. Đồng thời, phản ánh kịp thời những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình đăng ký để phản ánh tới phía cơ quan chức năng phía Trung Quốc kịp thời tháo gỡ cho doanh nghiệp.

Ngoài ra, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phổ biến tới địa phương, hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp triển khai thực hiện đáp ứng các quy định tại Lệnh 248 của Trung Quốc

  1. Các khoản nợ khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp được xử lý như thế nào?

Theo Thông tư 07/2022/TT-BTC hướng dẫn bàn giao, tiếp nhận, xử lý các khoản nợ và tài sản loại trừ khi chuyển đổi sở hữu DN, đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ vừa được Bộ Tài chính ban hành, đối với tài sản có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để tổ chức bán tài sản theo phương thức đấu giá theo quy định.

Đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong xử lý nợ và tài sản loại trừ

Theo Thông tư 07/2022/TT-BTC, nguyên tắc bàn giao, tiếp nhận nợ và tài sản là các khoản nợ và tài sản loại trừ khi bàn giao, tiếp nhận phải đảm bảo có đầy đủ hồ sơ (đối với nợ), có hiện vật (đối với tài sản). Trường hợp nợ không có đủ hồ sơ và tài sản không còn hiện vật thì Công ty Mua bán nợ có văn bản gửi cơ quan đại diện chủ sở hữu và DN, ĐVSNCL thông báo lý do không tiếp nhận để DN, ĐVSNCL tiếp tục quản lý, theo dõi hoặc xử lý theo quy định hiện hành về chuyển đổi sở hữu DN. Việc bàn giao, tiếp nhận nợ và tài sản loại trừ được thực hiện căn cứ vào quyết định công bố giá trị DN, ĐVSNCL của cơ quan đại diện chủ sở hữu theo quy định pháp luật về chuyển đổi sở hữu DN, ĐVSNCL. Quyết định công bố giá trị DN, ĐVSNCL phải nêu cụ thể giá trị nợ và tài sản loại trừ làm căn cứ để Công ty Mua bán nợ thực hiện tiếp nhận.

Về xử lý nợ và tài sản đã tiếp nhận, Thông tư 07 quy định, Công ty Mua bán nợ thực hiện các hình thức xử lý nợ và tài sản loại trừ đã tiếp nhận theo quy định tại Nghị định số 129/2020/NĐ-CP và Quy chế tài chính của Công ty, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch và phù hợp với các quy định hiện hành đối với từng hình thức xử lý nợ và tài sản. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì việc xử lý phải đảm bảo theo quy định của pháp luật về đất đai.

Đối với tài sản (bao gồm cả tài sản đảm bảo khoản nợ) có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để tổ chức bán tài sản theo phương thức đấu giá theo quy định. Đối với tài sản (bao gồm cả tài sản đảm bảo khoản nợ) có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn bán theo phương thức đấu giá hoặc thỏa thuận theo giá không thấp hơn giá thị trường. Trường hợp tài sản không có giao dịch trên thị trường thì Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để làm cơ sở bán tài sản và chịu trách nhiệm về việc quyết định giá bán tài sản.

Đối với tài sản tiếp nhận theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trường hợp cần thiết phải sửa chữa, nâng cấp để nâng cao hiệu quả xử lý tài sản theo quy định, Công ty Mua bán nợ được sử dụng nguồn vốn kinh doanh để thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo thẩm quyền quy định và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Số tiền thu hồi được sau khi trừ các chi phí phát sinh liên quan đến việc sửa chữa, nâng cấp tài sản, số còn lại được thực hiện theo quy định tại Điều 9 Thông tư này.

Đối với khoản nợ không có khả năng thu hồi

Một số trường hợp xử lý tài sản cụ thể cũng được Thông tư đề cập đến. Theo đó, trường hợp bán đấu giá tài sản không thành công, Công ty Mua bán nợ điều chỉnh giá khởi điểm theo quy định để tiếp tục bán đấu giá. Mức giảm tối đa không quá 10% giá khởi điểm của cuộc đấu giá không thành công liền kề trước đó. Đối với tài sản không có giá trị thu hồi, tài sản cần phải hủy bỏ, tháo dỡ, Công ty Mua bán nợ phối hợp với DN tổ chức hủy bỏ, tháo dỡ hoặc thuê tổ chức bên ngoài thực hiện hủy bỏ, tháo dỡ.

Bên cạnh đó, trong trường hợp bên nợ thanh toán đủ nợ gốc trong vòng 12 tháng kể từ ngày bên nợ cam kết trả hết nợ gốc thì Công ty Mua bán nợ xem xét xóa nợ lãi chậm nộp (kể cả tiền lãi chậm thi hành án trong trường hợp có quyết định của Tòa án) sau khi bên nợ trả hết nợ gốc theo cam kết. Đối với khoản nợ không có khả năng thu hồi (bao gồm cả nợ xử lý trước thời điểm bàn giao) đã được Công ty Mua bán nợ theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán trên 10 năm (bao gồm cả thời gian DN theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán trước khi chuyển giao cho Công ty Mua bán nợ), Công ty Mua bán nợ báo cáo Bộ Tài chính có ý kiến trước khi Công ty Mua bán nợ quyết định loại trừ, không tiếp tục theo dõi trên sổ sách theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 17 Nghị định số 129/2020/NĐ-CP.

Về vấn đề sử dụng tiền thu từ thu hồi, xử lý nợ và tài sản, Thông tư 07 quy định, Công ty Mua bán nợ thực hiện quản lý tiền thu từ thu hồi, xử lý nợ và tài sản loại trừ đã tiếp nhận theo quy định tại Điều lệ, Quy chế tài chính của Công ty và các quy định tại Thông tư này. Theo đó, trích 30% số tiền từ thu hồi nợ, bán tài sản đã tiếp nhận, nhận đền bù tài sản trên đất khi thu hồi đất để lại cho Công ty Mua bán nợ sử dụng nhằm bù đắp các chi phí phát sinh có liên quan như: tiếp nhận, tổ chức thu hồi, quản lý, khai thác, xử lý nợ và tài sản (bao gồm cả chi phí hủy bỏ, tháo dỡ tài sản), chi phí định giá, đấu giá và các chi phí khác có liên quan. Cùng với đó, trích 10% số tiền thu hồi nợ, xử lý tài sản tiếp nhận để chuyển trả DN nhằm bù đắp các chi phí quản lý, giữ hộ tài sản, thu hộ nợ, phối hợp, hỗ trợ để nhận đền bù tài sản trên đất khi thu hồi đất.

Trong trường hợp đưa tài sản tiếp nhận vào khai thác (góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết; cho thuê) thì thanh toán chi phí giữ hộ tài sản theo thực tế kể từ ngày ký Biên bản bàn giao nhưng không quá 10% giá trị thẩm định của tổ chức có chức năng thẩm định giá khi đưa tài sản vào khai thác.